Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

ĐƯỜNG ĐI CHÂU ĐỐC


ĐƯỜNG ĐI CHÂU ĐỐC

NGUYỄN VĂN HẦU

Sáng mồng ba tết – Cù Lao Ông Chưởng -
Nguyễn Hữu Cảnh – Đông Xuyên và Long Xuyên – Từ Long Xuyên đến Châu Đốc

Tinh sương mồng ba tết, anh em tề tựu đủ mặt tại Chợ Mới. Mỗi người đều có mang theo hành lý khá nhiều vì cuộc hành trình định sẽ kéo dài độ trên 10 ngày. Gặp tôi, anh Khanh vồn vả:
            -Mãi đợi anh từ 6 giờ kém 5. Sao, xe đã có sẵn rồi chứ?
            -Vâng, xe đã có sẵn nhưng chực tại Long Xuyên. Hôm nọ tôi quên nói cho anh biết. Chúng ta phải đi tàu sang đó.
Từ đây sang Long Xuyên bao xa?
            -26 cây số.
            -Thế ra ở đây không có xe?
            -Không. Đường bị phá hỏng từ mấy năm nay, quãng Chưng Đùng, Sóc Chét nhà cửa bỏ hoang, bắc An Hòa chưa tái lập, xe hơi không đi được đâu. A! tàu đã xúp lê rồi kia, chúng ta hãy mau chân xuống cho kịp chuyến.

                   óóó

Chiếc Nguyễn Trung hôm đó đông nghẹt hành khách, chúng tôi ngồi nhom lại một góc để dễ chuyện trò.
Nước xuôi tàu mạnh, lướt vùng vụt trên sông, bỏ lại đàng sau những đợt sóng trập trùng trắng dã, đập tung vào hai bên bờ. Nhìn về phía trước, nhà cửa san sát, mọc chen chúc giữa vườn tược cây cối xanh um. Ánh thái dương dâng lên lừng lững, nhuộm đỏ những mái trường, mái đình ở đầu doi thêm rực rỡ bên cạnh những hàng sao mượt lá. Khung cảnh trong càng ngoạn mục. Anh Khanh buộc miệng:
            -Ở đây là đâu mà đẹp quá nhỉ?
            -Lại quên mất rồi! Chợ Mới chứ còn đâu nữa!
            -Ừ, đã biết là Chợ Mới, nhưng sông này là gì và làng mạc hai bên bờ gọi là gì vậy?
            -Hữu ngạn, xã Kiến An; tả ngạn, xã Long Điền; còn con sông nầy là sông ông Chưởng. Cù Lao Ông Chưởng đang hiện rõ trước mặt chúng ta kìa.
Anh Khanh ngạc nhiên:
            -Đây là Ông Chưởng? Thế ra câu ca dao:
                        Ba phen quạ nói với diều,
                        Cù Lao Ông Chưởng còn nhiều cá tôm.
Là chỉ về chốn nấy sao?
            -Giỏi lắm. Xa quê mà không quên gốc, đáng khen cho anh một điểm son. Đây chính thật là Cù Lao Ông Chưởng trong ca dao đó.
            -Nhưng sao cá tôm không thấy ?
            -Thấy lắm chớ, chỉ tại anh không ra chợ. Bây giờ người ở đông đúc, ghe tàu qua lại quá nhiều làm cá tôm cũng ít hơn ngày trước đôi phần, tuy vậy vào tháng 9 tháng 10 âm lịch, chúng trên đồng tràn xuống thiếu gì, và giá bán cũng rẻ mạt.
Kìa anh hãy trông vào bờ, một miệng chày đang kéo lên, cá nhảy tung trắng xóa.

                                                                          *  *  *

Khanh chăm chú nhìn một ngư phủ gở cá trong lòng chài bỏ vào xuồng cho đến khi tàu chạy khuất dạng mới xoay sang hỏi tôi:
            -Tại sao người ta gọi Cù Lao Ông Chưởng, anh? Ông Chưởng nào mà học sử tôi không hề thấy có nói tới?
Lỗi tại chương trình giáo khoa không ghi, chứ thật ra Ông Chưởng là người có công đầu trong việc khai thác miền nam nầy.
Anh hãy kể lai lịch Ông Chưởng cho anh em nghe đi.
            -Ông Chưởng tức người ta gọi tắc là chức quan chưởng cơ. Ông được phong tước Lễ Thành Hầu, tên thật Nguyễn Hữu Cảnh. Vốn là cháu đời thứ 9 của Nguyễn Trãi và là con của Nguyễn Hữu Dật, ông theo phò chúa Nguyễn Phúc Chu lập được công lớn trong việc trinh phạt Chiêm Thành lần cuối cùng năm 1692. Sáu năm sau, ông vào kinh lược đất Đồng Nai, đem được hơn bốn chục ngàn dân từ Ngủ Quảng vào khai hoang. Thời ấy Đồng Nai còn là rừng sâu nước độc, dân cư quá ít, một phần người Thổ (1) và một phần người Minh Hương ở xen lộn với người Việt, vậy mà ông nổ lực làm việc trong một năm thì lập được làng xã doanh huyện, thiết lập bộ đinh và kiểm soát được dân số.
            -Thế thì miền Hậu Giang hồi này chắc còn bỏ hoang và chổ mà ta đang đi đây vẫn còn là nơi thịnh trị của hùm thiêng rắn độc?
            -Ít người ở chứ không nhất thiết bỏ hoang đâu. Đây đó thỉnh thoảng cũng có một vài sóc Thổ dựng lên hoặc năm bảy lều tranh của người Việt, và người Minh Hương nhen nhúm. Bởi vậy mới có chuyện người Thổ hợp nhau đánh đuổi người Việt và người Minh Hương, và chuyện đó dần dần biến thành chuyện lớn, khiến ông Nguyễn Hữu Cảnh phải cứ đại binh vào dẹp.
            -Trận giặc đó xảy ra trong năm nào vậy anh?
            -Mùa xuân năm 1700 thì binh Nguyễn Hữu Cảnh tới Vĩnh Long. Sau khi cho đắp ở đây một chiến lũy, ông đuổi giặc tận Nam Vang. Vua Cao Miên hoảng vía phải hàng ông không điều kiện. Ông phủ dụ họ rồi rút quân về đóng tại cù lao này, chỗ chúng ta xuống tàu hồi nãy.
Nhưng chỉ nghỉ binh được ít ngày thì ông bị cảm nặng, thổ huyết giữa bữu tiệc khao binh trong ngày tết Đoan ngọ rồi mấy hôm sau ông mất. Nhân dân nhớ ơn lớn của ông mới lập đền thờ và gọi nơi đây là cù lao Ông Chưởng (1).
Nghĩ mà thán phục công đức của người xưa. Phải có chí và nhiều can đảm mới dám vào đây thời đó phải không các anh?

                                                                          *  *  *


Mãi say mê câu chuyện mà tàu đã cập bến Long Xuyên.  Anh Ba, đầu ngã màu muối tiêu nhưng sức vóc mạnh khỏe, đã lái chiếc xe díp đậu trực sẵn trên bờ.
Chúng tôi mang hành lý lên xe rồi cho xe chạy chậm chậm vòng theo các nẽo đường trong châu thành  cho anh Khanh và anh Hà biết qua.
 Quang cảnh nhộp nhịp của tỉnh lỵ này vào buổi sángtuy có vẻ vui mắt nhưng không che dấu hết được những gì mang tính chất tàn phá của chiến tranh. Một bức tường đổ, vài gian nhà bị cháy sém, đã nhắc lại một thời qua đầy khủng khiếp. Chúng tôi ghé vào một quán cà phê để tìm món điểm tâm.
Trong khi chờ thức ăn, anh Trình chỉ lên một bức tranh đẹp treo trên tường có mấy dòng chữ Hán đề tặng chủ nhân, hỏi tôi:
            -Tại sao người Tàu gọi ở đây là Đông Xuyên mà không viết Long Xuyên như chúng ta, anh? Và tại sao lại có hai danh từ để cùng chỉ một nơi vậy?
            -Đông Xuyên là tên huyện, có trước; còn Long Xuyên là tên tỉnh, có sau. Huyện Đông Xuyên do triều đình cắt đặt, còn tỉnh Long Xuyên thì bởi người Pháp chia ra. Người Tàu quen theo tên huyện, cứ viết như thế.
            -Thế huyện Đông Xuyên chịu hệ thống ở đâu và đến bao giờ mới đổi ra tỉnh?
            -Đời Minh Mạng, lúc Nam Kỳ được chia thành “lục tỉnh”, Đông Xuyên là một huyện của phủ Tân Thành, tỉnh An Giang (1). Năm 1867, người Pháp chia sáu tỉnh ra thành 24 hạt và sau đó bớt lại còn 20 tỉnh thì Long Xuyên trở thành một tỉnh của miền nam.
            -Như vậy An Giang ngày trước gồm cả Long Xuyên, Châu Đốc?
            -Không chỉ gồm Long Xuyên, Châu Đốc mà có cả vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ và Sa Đéc nữa; vị trí rộng lắm.
Riêng Long Xuyên bây giờ đã được thu hẹp lại, diện tích của nó chỉ còn được 261090 ha, nhưng dân số trái lại đông đúc hơn xưa (1).
            -Hồi còn là huyện, chắc phong cảnh Đông Xuyên tiêu điều và thành phố chẳng có gì?
            -Dĩ nhiên, Mãi đến hồi pháp tới, miền này còn hoang vu nhiều chỗ. Nhà ở thưa, muỗi đỉa, rùa rắn nhiều. Cả đến tại châu thành, ban đêm cũng có rắn bò nhung nhúc và muỗi kêu như gió thổi. Một cô vợ trẻ của một viên chủ tỉnh Tây, giữa ban ngày sợ muỗi đốt, phải giăng mùng ngồi nói chuyện. Ghê chưa!
Nhưng Đông Xuyên nổi tiếng về hai đặc điểm: trai chuộng lễ giáo, gái giồi công hạnh. Những chàng trai hai huyện (Đông Xuyên và Phong Phú) đi khai khẩn miệt Rạch Giá, Cà Mau, rất dễ dàng kiếm vợ và những cô gái vùng nầy (trai Nhân Ái, gái Long Xuyên) lại thường được các chàng trai mọi nơi đưa nhau đến để rắp ranh bắn sẻ.

                                                                          *  *  *


Nắng buổi mai xuống nhiều, đã thấy nóng, chúng tôi trả tiền cho chủ quán rồi lên xe. Tôi hỏi anh Khanh:
            -Anh vừa có dịp thăm qua nhiều nơi trong nước, vậy khi quan sát một lược vùng nầy, anh có thể cho chúng tôi biết đại khái cảm tưởng của anh.
            Khanh nhanh nhẩu trả lời ngay như chưa cần suy nghĩ:
            -So với vài tỉnh miền Trung và miền Nam mà tôi có dịp thăm viếng gần đây, tôi thấy Long Xuyên yên ổn nhất: người đông như kiến, phố cũng nguyên vẹn và sự lưu thông cũng dễ dàng. Không như nhiều nơi dinh thự bị đổ nát, dân chúng hồi đông chưa hồi cư, người đi lại rất ít và mỗi khi vào châu thành thường bị tra xét gắt gao. Gặp Tây, họ sợ lắm lét như sợ gặp ma quỷ.
            -Thế anh có muốn ở đây không?
            -Thích lắm.
            -Thích thì về đây mà dạy học với chúng tôi. Học trò đây ngoan, khí hậu đây lành và các đài hoa biết nói ở đây cũng không thiếu.
            Tất cả đồng cười.
            Xe lướt nhanh trên đường nhựa, phút chốc rời khỏi thành lỵ. Con đường dài đen nhánh, thẳng băng hiện ra trước mắt chúng tôi như một vóc lãnh Tân Châu khổng lồ trải phơi trên một sân rộng.
            Hai bên đường, mùi rạ mới bốc lên thơm phức. Phía tây, cánh đồng vàng ngập nắng, trông vàng tươi, trải liền tận chân trời. Về hướng đông, xa xa, vài rặng cây xanh đứng thu hình bên bờ sông, dấn thân lên nền trời, báo hiệu những làng mạc, thôn ấp lẻ tẻ.
            Từ Long Xuyên tới Châu Đốc, đường 54 cây số. Ngoài ngã ba Tri Tôn – Châu Đốc, chúng tôi phải trãi qua kinh Cây Dương, kinh Vịnh Tre, rạch Cần Thảo và nhiều lạch ngòi nhỏ khác. Những sông ngạch chi chít ở miền này chảy vào đồng Láng Linh, đồng bảy thưa và riêng vài kinh lớn, ăn thông từ Hậu Giang tới Hà Tiên, Rạch Giá. Hằng chúng đem vô sô mầu mỡ vào để vun bón cho ruộng đồng và tẩy sạch chất muối, chất phèn sau những mùa nước lụt.
            Mười hai gời trưa thì tới Châu Đốc. Chúng tôi vào chợ mua vài món cần thiết rồi tìm đến một nhà quen.


_______________________________
(1) Vào tháng 4 tháng 5 dl.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét