Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

BAO GIỜ BÁNH ĐÚC CÓ XƯƠNG

Bao Giờ Bánh Đúc Có Xương
Lưu Nhơn Nghĩa

Trước năm 1954, chợ Xà Tón chỉ rộn rịp vào buổi sáng. Dân Miên mang thổ sản, dân Việt mang nông sản ra bán quanh chợ.Buổi trưa, người Miên rút vô sốc phụ cân dọc theo chưn núi, dân Việt lui về xóm kinh, còn lại chợ trống. Dân Miên có văn hoá riêng, theo Phật Giáo nguyên thủy, lối giải trí khác như Cho snam may, Đuan tà, He cà thưng.
Dân Việt không được môn giải trí gì, sống dọc theo kinh, làm ruộng, giăng câu. Vì dân thưa, sống rải rác, nên khó tập họp. Chiều chiều họ thêm nghề quay dây luộc bán, ngày nay thay bằng dây nilon. Thỉnh thoảng có gánh cải lương tới hát vào dịp Tết, ít khi họ coi hát, tốn tiền, xeđạp chưa phổ thông, xe lôi thì đường xa, tốn kém.
Dân Tàu trên đường Việt hoá, các bà nói tiếng Việt sỏi hơn các ông, tiếng Tiều thu gọn trong gia đình buổi tối, khi cần nói riêng không muốn người ngoài nghe. Lúc đầu còn mấy gánh hát Tiều ghé mỗi tiệm hát một lần, chủ nhân ủng hộ tiền, nhưng ít thấy họ chịu khó ngồi thưởng thức. Vài năm sau 1950, hát Tiều và Sơn Đông mãi võ biến mất luôn.
Cái gì cũng chậm chạp. Xe đò Tri Tôn Châu Đốc, đúng 42 cây số, chạy mất gần ba tiếng đồng hồ, thật là chậm tiến. Chuyện xãy ra ở đâu đâu, tới xứ còn lại khúc đuôi. Thập niên 40, dân Lục tỉnh đã biết danh các cô đào cải lương như Nam Phỉ, Phùng Há, kép Năm Châu, Tư Chơi, xin lổi, xứ nầy tới bây giờ chưa có ai biết đào kép trên, tôi biết nhờ đọc sách của ông Vương hồng Sển.
Nguyên nhân sự chậm tiến do mấy ông già. Thế hệ trưởng lão thật lạ lùng. Mấy ổng vừa dốt, không biết chữ vừa bảo thủ, khó khăn không đâu bằng, lại có quyền uy tuyệt đối với con cháu. Bảo thủ không cần thông báo hay giải thích lý do, mà chưa chắc mấy ổng biết lý do. Con cháu nhắm mắt nghe như là chân lý. Con gái học chi nhiều, học để viết thơ tình à ?. Thấy bọn tôi tập đi xe đạp, côn ngoại tôi hầm hừ, “tập cho nó đi xe máy đi, để nữa lớn nó đi bộ à, tập cho nó ăn đi, để nữa lớn nó ăn cỏ à “. Hể thấy có gì lạ là hầm hừ, chỉ biết hầm hừ. Suốt đời không thấy thân thiện với con cháu, thấy ổng, bọn tôi biết thân lánh xa, ổng được khen có "uy" với con cháu. Ngày ổng mất, bọn cháu dởn như giặc chòm. Ở tỉnh người ta phi dê tóc, xứ tôi đố đứa nào dám uốn tóc. Ông có người con dâu gốc ở chợ bới tóc kiểu mới. Ở Xà Tón, các bà chải xuôi ra sau, quấn lại rồi bới. Người dâu ông chải tóc thành ba lọn, lọn ở giửa, hai lọn hai bên màng tang óp lại mới bới, sau đầu người dâu có hai lằn tóc. Ông kêu mấy người dâu khác nói, "Bây a, ra coi cái đầu nó bị nứt nè bây".

                                                            ===============
Cái Giàn Hát Máy
Giàn hát máy quay dây thiều, mài kim có từ đời nào rồi, mãi đến năm 1950 mới tới chợ nầy, chỉ có vài nhà có, ít khi mang ra hát, cưng máy, sợ hư, chỉ hát vào dịp đám cúới. Bọn con nít không có gì giải trí, thèm nghe lắm, nghe vài lần thuộc bài hát ngay, chép lại hát nghêu ngao.Giàn máy ASIA để lại nhiều ảnh hưởng trong nếp sông dân chơ. Mỗi tuồng hát để lại bài học nào đó, chưa kể khía cạnh văn chương ngôn ngữ. người nghe vừa học vừa hành tới nơi tới chốn, nhứt là các bà các cô.

Phạm Công Cúc Hoa
Trạng nguyên Phạm Công, vợ Cúc Hoa có hai đứa con tên Nghi Xuân và Tấn Lực. Cúc Hoa bịnh mất. Vì có lịnh vua sai đi dẹp giặc, Phạm Công cưới vợ sau là Tào thị để săn sóc con. Khi Phạm Công đi xa, Tào thị bạc đãi con chồng, bắt Nghi Xuân Tấn Lực ra đồng chăn vịt, rồi đuổi hai trẻ ra khỏi nhà. Hai chị em dắt nhau đi ăn xin qua ngày. Đêm khuya, hai trẻ ngủ bên vệ đường, hồn Cúc Hoa hiện về an ủi và bắt chí cho Nghi Xuân, dặn dò chỉ đường về nhà ông ngoại, nhưng bà ngoại không nhìn ra cháu, hai trẻ tình cờ vào dinh Trạng nguyên vừa dẹp giặc về, xin cơm. Cha con nhận ra nhau, đoàn tụ, Phạm Công về đuổi Tào thị, mụ nầy bị trời đánh chết.
Tuồng hát đơn giản, tình tiết, bài bản rất hay từ đầu đến cuối. có nghe mới thấm thía và sự ảnh hưởng sâu xa mãnh liệt ở chợ quê nầy. Buổi tối khi nhà tiệm đóng cửa, cảnh vật thanh vắng, không khí êm ả mát lành, bên ngọn đèn bánh ú leo lét, giàn hát máy bắt đầu. Thời bình tịnh, trăm người như một, chú tâm lắng nghe. Họ say sưa thưởng thức từng tiếng, từng câu hát, như uống ly nuớc chanh buổi trưa nắng, không chừa giọt nước nào.. Nghe xong, rồi lại nhập tâm, hát theo, nhập vai, sau nầy mang ra ứng dụng trong nếp sống hằng ngày. Tiếng đàn hát vang xa, quyện trong không gian, mang niềm vui buồn, bài học nghĩa nhơn hiến cho chợ quê.
Khi Cúc Hoa mất, Phạm Công được lịnh ra biên ải dẹp loạn, nói lối,
 Nghi Xuân Tấn Lực hai con ôi, cha đã vội cam bề đơn chiếc thì hai con cũng đành sớm chịu mồ côi. Rồi khi ngọn đèn khuya leo lét chốn cô phòng con lạnh lẽo…”
Nghe Phạm Công than thở trong giàn hát máy mới mùi, hiểu được hoàn cảnh bi thương. Cha thì đơn chiếc (đơn mà còn chiếc ), con thì mồ côi. Cha con ngồi bên ngọn đèn khuya leo lét, chồng nhớ vợ, con nhớ mẹ. Phạm Công thương con hay muốn vợ?. Lấy vợ là hợp lý, cha cần vợ bé, con cần mẹ ghẻ. Các bà không chê tránh Phạm Công, chỉ nguyền ruả Tào thị, tuởng mình là Cúc Hoa ( chưa chết).
Đầu hôm nghe Phạm Công than van, khuya nghe Tào thị đanh đá chửi con chồng, Bài bảng nầy ai cũng thuộc vì dễ hát. Nghệ sĩ vai Tào thị diễn đạt hoàn toàn cái ác tâm của bà dì ghẻ.
“ Bớ Nghi Xuân Tấn Lực, tại sao tao đã biểu bây ra đồng chăn vịt, bây để cho vịt đi mất hết vậy?. Chúng bây là đồ báo cô, cơm dư thà là đổ đi, tốt hơn cho chúng bây ăn, nuôi bây cho lớn khôn, tránh đâu tiếng đời mẹ ghẻ con chồng, thật uổng công tao, đi đi cho mau “
Cái ác của Tào thị đã vậy, tiếp theo cái bi ai, cảnh thâm sâu não lòng. Đêm khuya, khi hai đứa bé nằm ngủ bơ vơ, màng trời chiếu đất bên giàn thiên lý, hồn Cúc Hoa hiện về, chỉ nghe tiếng chứ không thấy, cũng không cần thấy, cứ để tâm hồn theo tiếng kêu âm hồn của Cúc Hoa, “ Bớ Nghi Xuân Tấn Lực hai con, “. Hai đứa bé kêu ,” mẹ, mẹ”, dù kẻ có tấm lòng sắt đá đến đâu, khó tránh mủi lòng, nếu không khóc.Tim các bà mẹ tan thành nước mắt. Lúc hồn Cúc Hoa vạch tóc bắt chí cho Nghi Xuân, “Để mẹ bắt chí cho con, trời ơi ( tiếng trời ơi nghe não nuột ), con gái lớn rồi mà không gương lượt …” Cảnh mẹ bắt chí cho con thời đó là hiên tượng quen thuộc hằng ngày, người ta đã thành Cúc Hoa bắt chí cho con, họ xót lòng tự nhiên thương con gái hơn. Chưa hết, còn nữa, lúc gần sáng, Cúc Hoa chia tay con, biến đi, hai đứa kêu, “ mẹ ơi, đừng bỏ con đi “, cái xóm chợ nầy đổ bao nhiêu nước mắt chơn thật, nước mắt của chính người mẹ và tình mẫu tử.
Cả vở tuồng chỉ có đoạn Tào thị chửi mắng và bắt Nghi Xuân Tấn Lực chăn vịt và đoạn Cúc Hoa hiện hồn về bắt chí cho con là đáng nhớ.. Các bà lấy tuồng hát ứng dụng trong gia đình. Mỗi khi nổi cơn, nguyên nhân không liên hệ gì đến chuyện mẹ ghẻ con chồng, mấy bà nổi máu cải lương, "Nếu tôi có chết, con tôi cũng khổ như Nghi Xuân Tấn Lực", nhưng mấy bả không đóng nổi vai Cúc Hoa, mà nhảy đong đỏng lên, nhứt định không chịu chết cho người ta có vợ bé mới ngặt..
                                                            ===============
Đồng thời với vở tuồng Phạm Công Cúc Hoa, chợ Xà Tón xãy ra hai vụ "mẹ ghẻ con chồng". Lửa đã sẳn, thêm dầu, chuyện nhỏ xé to, gây cuộc khũng hoãng khá lâu, dân Tiều phải nhập cuộc áp lực mới yên. Chuyện nầy tôi đã viết trong bài "Con đường cũ", bây giờ cần, viết lại cho trôi chảy.
Ông Bang Ứng họ Huỳnh, tiệm Vĩnh Phong Chành. Ông lớn người, tốt tướng, đàn anh trong quận, tận tình giúp đở dân Tàu trôi giạt về đây. Ai nghèo ông giúp đở vô điều kiện. Chành ông gồm hai căn phố lầu ở giửa dãy phố, cửa tấn bằng những bao muối an toàn. Đêm đêm, năm 1945, ông kêu gia đình khu mất an ninh hay nhà vách ván, đến nhà ông ngủ. Trên lầu nhà ông nhiều gia đình nhứt là đàn bà trẻ con đến ngủ.
Ông Bang Ứng có vợ lớn bên Tàu, qua Việt Nam chỉ dẫn theo người con trai lớn là chệt Chiêu. Chệt Chiêu cũng có vợ lớn bên Tàu, dẫn qua con trai lớn là thằng Huỳnh Hạng và vợ nhỏ với bầy con sau. Chệt Chiêu chẳng những không thương, còn ghét Hạng ra mặt, nó bị đòn nhiều lần, mẹ tôi bất nhẫn. Vợ hai ông bang Ứng là ý Lèn. Ý Lèn sanh thằng Tỷ, trắng tươi, cao lớn đứa. Ý Lèn ít nói, hiền như đất, ít thấy ai hiền như ý Lèn ở xứ nầy. Trưa trưa, ý Lèn dẫn Tỷ và Hạng ra chợ ăn quà. Ý thương Hạng như Tỷ. Hình ảnh người mẹ hiền ngồi ăn bánh chuối hấp chấm nước dừa, hai bên là hai con ngồi ăn, ai cũng thương. Hạng thương ý như mẹ ruột, dù kêu bằng “a má” (bà). Nếu không có ý, Hạng bơ vơ, thiếu cả tình mẹ lẫn tình cha. Sau khi ý mất, họ vừa nhắc vừa thưong, "nhớ chế Lèn dẫn hai đứa nhỏ ăn bánh chuối."
Tin ý Lèn mất làm rúng động dân Tàu ở chợ.  Lúc động quan, Hạng vẫy dụa nhào lăn ra khóc kêu’ “ má, má ”, tiếng khóc động tới hoàng thiên, còn ai thương yên binh vực Hạng ? Ông bang Ứng lấy vợ ba. Dân bổn phố đã thuộc lòng tuồng tích Phạm Công Cúc Hoa để tâm theo dõi chành ông bang. Chuyện các bà đoán xãy ra y như tuồng Phạm Công Cúc Hoa đã đến.
Buổi trưa, ông già tôi mặc áo thun lá, quần cành tăng ngắn đưa võng lim dim. Tỉa Tà Dú, chệt Kia Mẫu mang guốc lộp cộp vô nhà nói nhỏ với ổng. Ông già tôi xám mặt, vội vã xỏ áo Tiều, mặc quần lảnh đen qua kéo thêm củ Phú đi xai xãi. Dãy phố bên kia, ý tư Lềnh, ý Xẻng la, "đi đi, mau coi" mặt nghiêm trọng lắm. Tin gì như trời sập.
Dân bổn phố tới đầy nhà ông bang Ứng. Bà vợ ba ông bang vừa lấy dao cắt tay thằng Tỷ. Lửa cháy thật rồi. Cả chợ ầm lên xôn xao, Nghi Xuân Tấn Lực, Cúc Hoa hiện về bắt chí. Các bà làm coi đuợc lắm, "tôi đã nói mẹ ghẻ con chồng mà", làm như Tỷ là con mấy bả.  Mấy ông cũng lọt vô bẩy, chuyện nầy đâu phải dành riêng cho mấy bà, đàn ông cũng họp lại làm cho ra lẽ, vì ai cũng mang ơn và thương ý Lèn ít nhiều. Bao nhiêu tình thương và ơn nghĩa ý Lèn dành cho Tỷ.  Tỷ bị giấu biệt trong nhà, cả tuần sau, thoát ra đi chơi ngoài chợ. Ý Im, vợ chệt Tào Cua, ông già thằng Tùa Tháo nắm tay Tỷ đến nhà tôi, không ghé tiệm ông Lào Tán. Ý cầm tay Tỷ phân trần, "Xố ( danh xưng chị dâu ) coi nè, một lằn dao vậy nè, ai mà ác dữ vậy “. Bà già tôi cầm tay Tỷ, thút thít, “ Phải còn mẹ đâu đến đổi vậy “.  Bà già tôi bàn giao Tỷ cho kiểm Phú kế bên, “ xiếm coi coi, “. Kiểm Phú vuốt tay chổ vết thương Tỷ, nói một tràng tiếng Tiều, thở hổn hển. Tôi tò mò nhìn tay Tỷ, vết trầy chừng ba phân, như nhánh cây quẹt, thua xa vết trầy trên gối tôi khi té xe máy.
Dãy phố bên kia, ý tư Lềng kêu, “ Lại đây coi Tỷ,” cầm tay Tỷ, “Ai coi đó, con hổng có mẹ, Chế Lèn ơi, chế nỡ bỏ con đành đoạn vậy ", tiếng ý tư vang khắp dãy phố. Bà Chiệp Xe bỏ bàn nạo dừa xuống chạy ra, bà Vạn Trường Xuân thuốc Bắc, ý ba Lại, ông Đại Đức chành coi tay Tỷ, mỗi người một tiếng, mạnh ai nấy nói, tranh nhau nói, vài bà tức tưởi, chỉ một câu, “ phải chi còn mẹ".
Tiếng ý Xẻn từ ngoài chợ, “ Ai đụng tới con có ý đây nghe Tỷ“, ý tư Lềnh vuốt theo. “Đừng sợ con “. Người ơn nghĩa đã vậy, người nghe tuồng Phạm Công cũng xót xa. Sau nầy, tôi có ghé tiệm Vĩnh phong chành, bà hiền khô, bả nuôi Tỷ trọn vẹn, vất vã buôn bán không hở tay từ trong tới ngoài.
Cùng trường hợp đó, bên cạnh nhà tôi là tiệm ông Lào Tán bán tạp hoá, gia cảnh nặng nề hơn nhiều mà không thấy ai nhắc. Ông Lào Tán gốc bên Từng Xua (Đường Sơn ) qua, vợ ông mất để lại ba người con. Ý Nái có chồng, con là thằng Ik Bắc ở riêng. Hia Khù Khì thỉnh thoảng về vài ngày, chỉ có chế Nghín, con út, chừng 16 tuổi ở nhà. Ông Lào tán cưới vợ hai gốc Tịnh Biên, trúng số độc đắc.
Buổi sáng bà già tôi tò mò nhìn qua nhà ông Lào Tán, bà lầm thầm, “bà nhỏ…”. Bà nầy dữ chưa từng thấy, bả chửi lộn trong nhà, hàng xóm, người buôn bán ngoài chợ thường xuyên. Bả còn dữ hơn Tào thị. Đêm khuya, bả chửi làm hàng xóm mất ngủ, không ai than phiền. Bả chửi chế Nghín chưa đả, làm luôn mẹ chế Nghín, bả nhìn lên bàn thờ vợ lớn ông Lào Tán, mẹ chế Nghín hét, “ Chế ơi, chế về đem nó đi theo đi, cúng cơm chế có cái mặt nầy nấu chớ hổng có ai đâu “. Hình như bả ghiền chửi lộn, vừa có cả kho tàng từ ngữ chửi lộn. Bả chửi hàng giờ không biết mệt vì bà lớn người, bỏ bán buôn. Cũng may bà già tôi khéo xữ, chiều chiều bà qua nhà ngoại tôi thăm anh em, ít qua lại, đở mất lòng nhau. Dân Tiều bất lực, thỉnh thoãng, ông già tôi qua can, “ mại, mại mà tàn chệt à, ca bấu chế nì mut “ ("thôi chú Trần à, vợ nhà làm sao nói ")
Chửi lộn với hàng xóm chưa đả, bả làm luôn với người buôn gánh bán bưng trước nhà. Ai cũng kiêng dè bả, con Ten con bả đánh lộn với con nít lối xóm, bả nhào ra ăn thua đủ. Củ sáu tôi vừa mua căn phố xéo sau nhà bả, ở riêng với côn ngoại tôi nên mở giàn hát máy thả cửa, lại mở lớn tuồng Phạm Công Cúc Hoa. Bà Lào tán làm như điếc, củ Sáu tôi, “ Ai giỏi qua đây “. Bên ngoại tôi chín anh em chưa kể xe đò, đám Sáu Tống nghề võ, Ba Gần tài xế.
Một buổi sáng, kiểm Kim Xul bán hàng sáo, hiền lắm, ngồi ăn chuối xào dừa trước tiệm ông Lào Tán. Ăn thì lo ăn đi, kiểm cũng có tật nhiều chuyện, nói cho ngay kiểm khơi lại chuyện Tỷ bị cắt đứt tay , chứ không liên hệ tới cái vụ bà lào Tán với chế Nghín. Kiểm vừa ăn vừa lắt đầu, “ Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ nó thương con chồng “. Dì bán chuối xào dừa cũng đồng ý, khen câu nói của người xưa hay quá. Kiểm Kim Xul lại kết luận, mẹ ghẻ mười người ác như mười. Bà Lào Tán xách con cá mới mua vừa đi ngang nghe được, bị chạm nọc, cơn tam bành lục tặc nổi lên, bả liệng con cá vô mặt kiểm Kim Xul, Bà Lào Tán xăng tay áo, nhảy dựng lên, chống nạnh tay trái, tay phải nhịp nhịp, bao nhiêu tiếng văn chương chửi lộn tuôn ra như thác .
Tiệm ông Lào Tán và khu bán chuối xào dừa phải ngưng hẳn bán buôn, Bà Lào Tán đặt câu hỏi hóc búa. Kiểm Kim Xul ít học, đành dùng tay chưn, có khi đòn gánh để đáp cho đúng câu hỏi của bà Lào Tán,” Tại làm sao mà nó biết mẹ ghẻ ác chớ ? “
Lưu Nhơn Nghĩa
Brisbane 02-12-2006


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét