Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2023

BI KỊCH TRỊNH CÔNG SƠN. Tôi gặp Trịnh Công Sơn vào năm 1958 tại Huế; lúc đó Sơn khoảng 17 tuổi và tôi 18 tuổi. Chúng tôi chơi với nhau vì cùng tâm hồn thi ca, và bởi vì lúc đó tôi chưa hề là họa sĩ. Sơn thích thơ của tôi và đã phổ bài "Cuối cùng cho một tình yêu" năm đó. Trước đó, Trịnh Công Sơn đã viết "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi". Ngôn ngữ của "Ướt Mi", "Thương một người" và "Nhìn những mùa Thu đi" còn nhẹ nhàng, và còn có gì đó ảnh hưởng của Ðặng Thế Phong trong "Giọt Mưa Thu" hoặc "Buồn Tàn Thu" của Văn Cao – nhưng đến khi Sơn phổ nhạc bài thơ của tôi, nhạc của Sơn bắt đầu một chương khác, do ngôn ngữ của bài thơ lúc đó rất là mới. Tôi đã dùng những chữ "đói", "mỏi" trong thơ, mà lúc này Sơn lại thích bài thơ đó. Tuy nhiên theo tôi, bài Diễm Xưa của Sơn mới là mở đầu của một TCS hoàn toàn mới lạ và cực kỳ hấp dẫn trong nhạc trẻ, giới trẻ hồi đó. Cuộc đời của Sơn là một bi kịch. Ba của Sơn mất lúc anh đang học ở Chasseloup Laubat - một trường dạy chương trình Pháp - và đang chuẩn bị thi bac thì Sơn phải bỏ học để về chịu tang ba. Sơn rất giỏi thể thao. Anh tập 10 môn phối hợp rất được chú ý ở trường học. Sơn cũng giỏi về NhuÐạo và Boxing. Trong một buổi dợt với người em là Trịnh Quang Hà - anh đã bị một cú choàng vai, và bị tổn thương phổi rất nặng, nên phải bỏ cuộc, và nằm dưỡng bệnh hai năm. Nếu Sơn không bị những sự kiện đó, tôi nghĩ là Sơn sẽ đi học ở Paris và sẽ trở thành một tiến sĩ, một bác sĩ, một kỹ sư ... chớ không phải là một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi cho biến cố đó đã đặt Trịnh Công Sơn vào tình trạng cô đơn, tuyệt vọng. Sơn tập chơi guitare, tự học guitare với một người bạn, rồi sau đó viết ca khúc "Ướt Mi", "Nhìn Những Mùa Thu Ði". Khi tôi gặp Sơn, thì anh đã bình phục - Sơn không có điều kiện trở lại Sài Gòn để học tiếp ở Chasseloup Laubat vì gia đình anh bị phá sản, Sau đó - để tránh cho Sơn khỏi phải đi quân dịch, một số bạn như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha đã giúp Sơn thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn. Ca khúc Biển Nhớ đã ra đời tại trường sư phạm Quy Nhơn – trong thời gian này. Và nhân vật để Sơn viết bài Biển Nhớ là một người bạn gái có tên là Khê, nên có cái câu "Ngày mai nối bước Sơn Khê." Sau đó Sơn lên B'Lao nhận chức trưởng giáo của một trường Thượng có hai lớp, cách nhà trọ khoảng năm bảy cây số. Sơn phải đạp xe vào làng để dạy. Tôi lên thăm Sơn, và đưa Sơn ra Ðà Lạt để chơi cuối tuần - một căn phòng trọ với bốn bức vách đầy chim và bao thuốc lá Bastos - ở đó Sơn đã bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của anh với những bài như Ðàn Bò Vào Thành Phố, như Khi Mặt Trời Ngủ Yên, như Tiếng Hát Dạ Lan. Và đó cũng là thời gian anh viết những ca khúc về thân phận, và những tình khúc.Ðó chính là thời điểm tôi và Sơn gặp Khánh Ly tại một phòng trà ca nhạc nhỏ ở Ðà Lạt. Thật ra, người hát đầu tiên nhạc Trịnh Công Sơn và làm cho công chúng yêu nhạc Sài Gòn biết đến Sơn không phải là Khánh Ly mà là Thanh Thúy. Sau đó Trịnh Công Sơn viết bài Thương Một Người để tặng cho chị với câu: "Thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi vai..." Tuy nhiên, theo tôi, người giữ lái con đò âm nhạc của TCS trên dòng sông của đất nước chính là Khánh Ly kể từ khi Diễm Xưa ra đời. Cuộc gặp gỡ một cô ca sĩ bé nhỏ trông rất là nhếch nhác ở Ðà Lạt lại là một định mệnh. Sơn đi tìm một người ca sĩ trẻ - hoàn toàn vô danh và Sơn bắt đầu từ giọng hát của người ấy với sự tập luyện của chính anh, bởi vì lúc đó Sơn không quen biết những ca sĩ nổi tiếng của Sài Gòn. Và anh nghĩ dễ hơn là đi tìm một ca sĩ vô danh như Khánh Ly lúc đó. Ánh sáng của định mệnh đã chỉ cho Sơn đến với Khánh Ly - và từ đó Khánh Ly đã tìm được nơi nương tựa và nơi phát triển tiếng hát của mình lên đỉnh cao. Chúng tôi khuyến khích Sơn về Sài Gòn, bỏ dạy học - một cái nghề không thích hợp và không xứng đáng với Sơn. Tôi có căn phòng rất nhỏ ở đường Trương Minh Giảng. Sơn từ Ðà Lạt về và đã ở lại với tôi trong nhiều năm. Căn phòng đó ở gần chợ Trương Minh Giảng, bên kia đường là nhà của Bùi Giáng - cũng trong một cái xóm nghèo. Nhà tôi là nơi tạm trú đầu tiên của TCS khi anh về Sài Gòn. Chính họa sĩ Ðinh Cường một trong những người bạn rất thân với Sơn - cũng thường ghé đến đó.Ðôi khi ba chúng tôi ngủ chung trong một chiếc chiếu, và đã sống với nhau bằng đồng tiền dạy học của tôi. Từ đó Sơn gặp anh em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn. Anh bắt đầu xuất hiện tại sân trường Ðại Học Văn Khoa ở đường Lê Thánh Tôn nơi có trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ và sau lưng đó là trụ sở của CPS nơi mà Ðỗ Ngọc Yến, Trần Ðại Lộc, Hà Tường Cát... đã hoạt động chương trình mùa hè ở đó. Tại sân cỏ này, Sơn đã giới thiệu Khánh Ly và chị đã đi chân trần và hát cho Sinh Viên nghe. Rất nhanh họ trở thành thần tượng của tuổi trẻ Sàigòn, do tính chất mới mẻ và trẻ trung của nó. Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng âm nhạc ngay lúc đó. Phong trào du ca, của anh Nguyễn Ðức Quang,... đã ra đời cùng thời điểm đó. Tôi cho đó là một thời điểm lịch sử - thật sự bùng nổ về văn nghệ của giới trẻ trong đó có chúng tôi - hội họa sĩ trẻ Việt Nam. Chính thời đại đã sản sinh ra những hiện tượng như vậy và TCS và Khánh Ly đã là những khuôn mặt nổi bật trong giới trẻ bấy giờ. Trịnh Công Sơn - nối tiếp cao trào đo ù- đã dấn thân thêm nhiều bước trong lãnh vực âm nhạc của mình gần gũi với xã hội, và thời cuộc đất nước hơn. Những Ca Khúc Da Vàng, rồi đến Kinh Việt Nam ra đời trong giai đoạn này. . Người ta gọi nhạc Trịnh Công Sơn - ở một số ca khúc - là nhạc phản chiến . Tôi đồng ý với anh Phạm Duy, chữ "phản chiến" không đầy đủ ý nghĩa của nó, bởi vì chữ phản chiến nghe ra có vẻ kết án, có vẻ phải gánh chịu cái hậu quả của sự thất bại của Miền Nam . Tôi cho là chữ "thân phận" của người Việt thì khái quát hơn. Một thanh niên Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào, vẫn đầy sự hồn nhiên, và vẫn đầy lòng lương thiện để có một lý tưởng cho dân tộc, cho sự công bằng, cho sự không đổ máu , cho sự đoàn kết, cho sự thương yêu ... và cái chất đó có hầu hết ở chúng ta, và có hầu hết ở các lứa tuổi đang bước vào Ðại Học ... nhưng tuổi trẻ không bao giờ lường trước được những âm mưu của chính trị - cho nên sự hồn nhiên đó phải trả giá. Trịnh Công Sơn viết những bài Nối vòng tay lớn, Huế-Sài Gòn-Hà Nội 20 năm xa vẫn còn xa ...Ðể làm gì? Ðể ước mơ đất nước hòa bình thống nhất - để ước mơ anh em bắt tay nhau khi mà người di cư đã viết về "Hà Nội ơi ta nhớ...", thì rõ ràng không ai lại không nhớ Hà Nội nếu bỏ quê hương ra đi, không ai không muốn gặp lại người thân ... thì Trịnh Công Sơn đã đứng làm kẻ chịu vác cái thánh giá đó với bao nhiêu bi kịch sau đó . Tôi và Sơn là hai người bạn, khác nhau hai hoàn cảnh. Tôi là sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi chấp nhận đi Thủ Ðức bởi vì tôi không muốn sự bất hợp pháp. Tôi là một công dân tôi phải làm việc của người công dân, cho dù là chính quyền đó có thối nát, có gì đi nữa - tôi không chấp nhận sự bất hợp pháp cho nên tôi đi lính. Tôi thi hành nghĩa vụ của mình. Còn Sơn thì khác, anh không chấp nhận chuyện đó, Sơn chỉ đi vì lý tưởng của mình. Bởi vì chúng ta là những con người chọn dân chủ, chọn tự do thì phải tôn trọng tự do của kẻ khác; vì vậy cho nên chúng tôi vẫn chơi với nhau trong tình người, còn việc làm của ai thì người đó đeo đuổi riêng của họ. Đến ngày 30 tháng Tư thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó, Ðỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ đề nghị Sơn đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ. Tôi rất muốn đi Hoa Kỳ nhưng mà Ðỗ Ngọc Yến lại không hỏi tôi. Sơn ở lại thì tôi cũng đành ở lại. Tôi thì đành thôi và sau đó thì tôi đi học tập ba năm. Còn Sơn cũng không hơn tôi đâu. Khi các bạn đã rời khỏi đất nước ngày 30 tháng Tư, có lẽ các bạn không biết chuyện gì đã xảy ra cho Sơn. Sơn phải trốn ra Huế sau khi được đánh tiếng là sẽ bị thủ tiêu bởi vì tính chất hai mặt của Sơn trong âm nhạc và tính chất hai mặt của Sơn trong cuộc đời. Bởi vì Sơn là bạn của những nhân vật cao cấp của chính quyền Sài Gòn. Sơn đã từng viết Cho Một Người Nằm Xuống về cái chết của Lưu Kim Cương và đồng thời với Hai Mươi Năm Nội Chiến từng ngày, thì điều đó người cộng sản không chấp nhận. Tôi nghe kể lại cuộc họp ở trong khu người ta lên án Trịnh Công Sơn. Chúng ta không biết bi kịch đó cho nên chúng ta có những ngộ nhận đáng tiếc. Sau đó Sơn phải về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là họ sẽ giúp đỡ mình; nhưng, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận lỗi của mình - mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe - Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa? Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong sự kiểm soát. Sơn đã đóng cửa nhà mình, không tiếp Hoàng Phủ Ngọc Tường trong nhiều năm. Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cứu Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn sẽ đạp. Bởi vì tài năng âm nhạc của Sơn quá lớn, cho nên trong số những người lãnh đạo đất nước đó, cũng có người khôn ngoan hơn, biết cách thức hơn để giữ Sơn lại bằng cách bao bọc cho Sơn khỏi những tình huống hiểm nghèo như vậy. Họ đã tìm cách đưa Sơn về Sài Gòn, trả lại hộ khẩu cho Sơn, tạo điều kiện để cho Sơn yên tâm sống ở Sài Gòn. Rất nhiều người nghe nhạc Sơn thầm lén nhất là từ miền Bắc, trong đó có nhiều đảng viên cộng sản, nhưng không ai dám công khai thừa nhận nhạc của Sơn là tài sản của đất nước và Sơn không được phổ biến âm nhạc lúc đó - hiển nhiên âm nhạc hải ngoại là phản động. Ngay cả Sơn còn không được phổ biến, mà phải đợi một thời gian đổi mới và cải tổ. Vì vậy cho nên, Sơn là một bi kịch thu nhỏ của bi kịch đất nước. Và Sơn đã nghe được những luận điệu chống mình ở tại hải ngoại, nên Sơn rất sợ mặc dù có nhiều lời mời ở các đại học. Sơn đều không dám đi. Sơn từ chối, vì Sơn sợ cộng đồng ở đây sẽ đả đảo sẽ gây ra những nguy hiểm cho Sơn. Cho đến ngày Sơn mất. Có người đã về đề nghị đưa Sơn sang đây để thay gan cho Sơn miễn phí nhưng Sơn cũng từ chối. Trong thời gian 25 năm sau ngày mất Sài Gòn, tôi cũng kẹt ở lại - tôi đã chơi với Sơn, và tôi đã không làm gì được cho Sơn - để Sơn bị một căn bịnh đã dẫn tới hậu quả tàn khốc, tức là nghiện rượu. Bởi vì buồn, bởi vì cô đơn, bởi vì không biết sử dụng thời gian để làm gì ... vì những ca khúc viết ra đều bị phê bình nặng nề - như bài "Em ra đi nơi này vẫn thế ..." ở bên này cũng kết án bài đó - ở bên kia lại kết án là "Tại sao đất nước đã thay da đổi thịt mà anh lại viết là em ra đi nơi này vẫn thế? Sài Gòn vẫn còn nguyên à?" Người nghệ sĩ luôn đi giữa hai lằn đạn! Có ai hiểu được là Sơn cô đơn như thế nào! Và trong nhiều sáng tác của anh, nếu chúng ta tinh ý, thì chúng ta sẽ thấy tư tưởng của TCS sau ngày mất nước. Sơn đã viết "Đường chúng ta đi, đi không bao giờ tới ..." Những ca khúc nói lên sự quạnh quẽ, sự tuyệt vọng, sự bất an của mình.Ðó là một dòng nhạc đặc biệt mà có người không hiểu chê là thua những ca khúc anh viết trước 75 để chỉ chấp nhận tình khúc của anh mà thôi. Chúng ta không biết đến một dòng nhạc triết lý và đầy đau thương đã ra đời một cách lặng lẽ âm thầm. Ngay cả bài Nhớ mùa thu Hà Nội cũng đã bị cấm hai năm - chỉ vì câu - chỉ vì câu gì các bạn biết không? Mùa Thu - chữ Mùa Thu Hà Nội đã trở thành thuật ngữ Cách Mạng Mùa Thu - thì TCS đã viết "Từng con đường nhỏ sẽ trả lời cho ta ... đi giữa mùa Thu Hà Nội để nhớ một người và nhớ mọi Người ..." Người ta đặt câu hỏi: Nhớ một người là nhớ ai? Và từng con đường nhỏ tại sao lại phải trả lời? Hà Nội, những con đường của Hà Nội tại sao lại phải trả lời? Trả lời cho ai? Trả lời cái gì? Ðó là nhớ Khánh Ly và Khánh Ly sẽ đem phục quốc về ... Với sự suy diễn như vậy , méo mó như vậy, bài hát đó đã bị cấm hai năm. Các bạn có biết cái nỗi đau của người sinh ra đứa con tinh thần như thế nào? Và chúng ta sai hay đúng, hãy tự soi lấy mình - khoan kết án người khác sai hay đúng - bởi vì trong chúng ta cũng đều bị lừa dối ! Chúng ta đã trưởng thành chưa sau nhiều lần bị lừa dối về chính trị - thì chúng ta đừng trách Trịnh Công Sơn và đừng trách những người nghệ sĩ nhạy cảm và chân thật với cuộc đời với con người. Tôi xin kết thúc ở đây - để dành thời gian cho các bạn khác - tôi là một người bạn - là một nhân chứng sống trong nhiêu năm với TCS. Những ngày tháng cuối cùng của anh, tôi đã ở bên anh mỗi lần tôi có mặt ở Việt Nam. Buổi sáng, tôi ngồi với anh dưới bóng cây để uống trà, để nhìn nhau cho đỡ nhớ, để nói với nhau một vài thông tin về bạn bè - rồi đi về. Sơn ngồi ở cái vườn trên gác nhà anh, có một cây hoa sứ già 28 năm, một giàn hoa giấy ... nó đã trở thành một cánh rừng nhỏ của Sơn và tôi đã nhìn Sơn tàn phai theo nắng chiều qua những tia nắng hoặc cuối mùa, cuối ngày qua những chiếc lá của cánh rừng bông giấy. Và thỉnh thoảng có vài tiếng chim hót như chia sẻ cái nỗi cô đơn của Sơn. Buổi chiều, tôi và Sơn đi ra ngoài một cái nhà hàng mà các bạn chắc còn nhớ, đó là Givral để nhìn qua bên kia khách sạn Continental để nhìn cuộc đời đi qua, để nhìn những nguời Việt Nam đang hấp tấp vội vã trên đường phố, để nhìn một chút trời xám , để nhìn vài cánh én ... Rồi Ði Về. Sơn thèm đi ra phố - Sơn thèm hơi của thành phố. Bởi vì chúng tôi là những con người đã gắn bó với Sài Gòn từ lúc trẻ cho nên "Chiều một mình qua phố ..." hay "Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu ..."Ðó là đời sống của chúng tôi, và nó theo chúng tôi mãi mãi. Và Trịnh Công Sơn - hôm nay tôi được dịp để nói về anh, về cái sự tuyệt vời chịu đựng một bi kịch kéo dài cho tới ngày mà căn bịnh quái ác đã đục khoét tinh thần sức khỏe của anh cho đến hơi thở cuối cùng. Bởi vì sự cô đơn thật không có điểm tựa để làm việc. Và anh đã chết vì cơn bịnh này. Trịnh Cung

Thứ Ba, 24 tháng 10, 2023

Ghi chép về một ngày khó quên Quang Lập tháng 4 29, 2023 Nguyễn Quang Lập Ngày nào trên thế gian đều là ngày đáng nhớ của người này, ngày đáng quên của người khác; ngày đặc biệt của người này, ngày bình thường của người khác. Ngày 30.4 cũng vậy. Nó là ngày đáng nhớ của George Washington, Tổng thống Mỹ đầu tiên. 30.4.1789 trên ban công Tòa nhà Liên bang Phố Wall thành phố New York, G. Washington đọc lời tuyên thệ nhậm chức Tổng thống dân cử đầu tiên của Hoa Kỳ. Với Gerald Ford, Tổng thống Mỹ thứ 38, ngày 30.4.1975 là ngày đáng quên, khi ông đã trực tiếp điều hành một cuộc tháo chạy nhục nhã nhất lịch sử nước Mỹ. Nhà văn Duyên Anh gọi ngày 30.4.1975 là “Ngày Sài Gòn dài nhất”. Học theo Hans Speidel, Duyên Anh cũng viết một cuốn sách có tên “Ngày dài nhất”. Chỉ khác “Ngày dài nhất” của Hans Speidel là ngày mở đầu chiến dịch Overlord của quân Đồng Minh nhằm tiêu diệt Phát xít Đức, chiến dịch tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử, trận Normandie ngày 6.6.1944; “Ngày dài nhất” của Duyên Anh là ngày kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh, chấm dứt thể chế Đệ nhị Cộng hoà. Dù thế nào mặc lòng, với người Việt đó là một ngày khó quên. * Trốn chạy khỏi Đà Nẵng ngày 30.3.75. Ảnh: David H. Kennerly. 0g.Trong một ngôi nhà nhỏ Xóm Lách – Yên Đổ (chứ không phải cư xá Chu Mạnh Trinh quận Phú Nhuận, nơi nhiều văn nghệ sĩ Sài Gòn vẫn sinh sống), Duyên Anh ngồi im lìm với chai rượu Rémi Martin đã rỗng và cái gạt tàn lớn đầy vun mẩu thuốc lá. Sài Gòn yên tĩnh sau cơn hôi của điên khùng chiều qua (29.4), chỉ còn tiếng máy bay trực thăng rền rĩ phía Đại sứ quán Mỹ trong chiến dịch Frequent Wind (được dịch lung tung: Gió lớn, Gió đều, Gió thường xuyên) lúc 11g51 ngày 29.4 để di tản nốt hơn 10.000 người Mỹ và người Việt “có nguy cơ cao”. Khi tất cả đường băng Tân Sơn Nhất bị hỏng, máy bay có cánh không thể cất cánh hạ cánh được, Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger trực tiếp chỉ huy chiến dịch Talon Vise di tản bằng máy bay có cánh C141, C130 gọi về Nhà Trắng, nói như hét: “Vì Chúa, đề nghị dùng máy bay lên thẳng!”. Nhà Trắng chuyển sang “Lựa chọn 4”, dùng tất cả trực thăng ở Hạm đội 7, chiến dịch Talon Vise chuyển sang chiến dịch Frequent Wind cho máy bay trực thăng. Đô đốc Noel Gayler, Tư lệnh quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương huy động 81/85 chiếc trực thăng, trong đó có 36 chiếc Chinook loại lớn. Đài phát thanh Quân đội Mỹ ở “Nhà số 7” đường Hồng Thập Tự phát sóng mật hiệu, cứ cách mười lăm phút lại thông báo: “Nhiệt độ ở Sài Gòn là 105 độ F và đang tăng”. Tiếp liền là giọng ca Bing Crosby hát bài “Noel tuyết trắng”. Giờ này Bing Crosby vẫn hát: “Tôi đang mơ về một Giáng sinh trắng…”, Chiến dịch Gió lớn vẫn chưa ngưng. Duyên Anh đoán Phạm Duy đã bay được nửa chặng đường. Cả ông và Phạm Duy đều bị USIS, Sở Di trú Hoa Kỳ tại Sài Gòn, cho nhỡ tàu. Lần đầu tiên bị Mỹ lừa, hai văn nghệ sĩ nổi tiếng bậc nhất Miền Nam sốc nặng. Nhờ con, Phạm Duy cũng leo lên được máy bay. Trước đó ông đã rối rít tìm cách gọi cho Duyên Anh: “Tìm lối thoát lẹ đi, đừng tin Mỹ. Bọn Mỹ chó đẻ lắm.” Rốt cuộc Phạm Duy đành phải theo bọn “chó đẻ”. Phạm Duy còn may mắn hơn nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm báo Sống. Chu Tử ghét Mỹ hơn cả Phạm Duy, sức tàn lực kiệt, đi đứng còn không vững, vậỵ mà cũng “Get out”. Ông theo tàu Việt Nam Thương Tín rời sông Lòng Tàu (Cần Giờ) chừng vài hải lý thì bị một viên đạn cối bắn đuổi theo tàu. 4000 sinh mạng trên tàu không ai chết, mỗi Chu Tử chết. Tháng Tư 1966 một số kẻ bợ đỡ Đệ Nhị Cộng hoà căm hờn bút lực Chu Tử đã ám sát ông bằng bốn viên đạn súng lục xuyên qua cổ răng miệng. Vậy mà ông không chết. Tháng tư 1975 ông lại chết vì một mảnh tạc đạn vu vơ, lãng xẹt. 0g, Duyên Anh chìm trong rượu, Chu Tử chìm xuống đáy biển Cần Giờ. Bạn đọc của Chu Tử trên tàu Việt Nam Thương Tín đã thuỷ táng cho ông. Duyên Anh vẫn thức. Ông ráng ngồi đợi cái kết của cuộc chiến 30 năm. Ừ thôi, không đi được thì ngồi xem nó kết ra làm sao, âu cũng là thiên chức nhà văn. Trước khi bị USIS cho ăn quả lừa, Duyên Anh không bao giờ ngồi đợi điều không muốn, giờ đây là niềm an ủi đắng cay của ông. Thời khắc ấy tại Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh ở Ấp Căm Xe (nay là Ấp Tân Định) xã Minh Tân, huyện Dầu Tiếng, Bình Dương, Đại tướng Văn Tiến Dũng cũng hút thuốc uống rượu nhưng không say khướt chẳng buồn thiu như Duyên Anh. Tướng Dũng và các cộng sự của ông đang phấn khích. Chưa khi nào các ông ra trận mà tốc độ “di tản chiến thuật” của quân lực Cộng hòa còn nhanh hơn cả mức tấn công của bộ đội. Ngày 5.2.1975 trước khi lên chiếc Antonov 24 bay vào Đồng Hới, khởi đầu Chiến dịch 275, ông còn nhìn thấy nơi giáp ranh Hà Nội – Giáp Bát bên phải quốc lộ 1, cây cột cây số đã tróc sơn màu đỏ trắng trổ một dòng chỉ dấu: “Sài Gòn 1789km”, thấy nó xa vời vợi. Chẳng ngờ giờ này ông đang ở nơi cách Sài Gòn chưa đầy 40km, chỉ trưa mai thôi ông sẽ tới Sài Gòn. Khó nói gì hơn hai tiếng thần kỳ. Giờ G. bắt đầu từ 0g 29.4, đại quân của ông chia thành năm cánh xuất quân tiến về Sài Gòn. “Đến 24 giờ 00 ngày 29-4-1975, toàn thể lực lượng tiến công vào Sài Gòn sẵn sàng như một chiếc búa thần đã vung lên, kẻ địch sắp bị trừng phạt co rúm lại, run sợ nhìn chiếc búa thần đang bổ xuống.” Tướng Dũng đã viết vậy trong sách “Đại thắng mùa xuân.” Đại sứ Graham Martin tiễn phu nhân lên máy bay lúc 0g, khi không thể lùi được nữa. Cầm chịch cuộc di tản, Matrin muốn người Mỹ ra đi thong thả, tránh một cuộc tháo chạy hỗn loạn “làm mất mặt nước Mỹ”. Martin cấm cả phu nhân đại sứ, bà Dorothy Martin mà mọi người thương mến vẫn gọi là Dottie, không được đóng gói đồ đạc, người ngoài trông thấy sẽ đồn ầm lên: “Ông bà Đại sứ chạy rồi.” Bà Dottie chỉ được 11 phút chuẩn bị, vừa đủ một túi xách nhỏ lên máy bay. Cập rập vội vàng bà quên cả việc nấu cho chồng món lagu thịt bò tươi Củ Chi, khiến bà băn khoăn suốt chặng đường về nước Mỹ. Chồng bà đã thức trắng từ chiến dịch Talon Vise đến chiến dịch Frequent Wind, ngót nghét 74 giờ. 2g. Đại sứ Graham Martin gọi điện cho người trực tiếp điều hành trực thăng, Đô đốc Noel Gayler, ông cần 30 chuyến trực thăng CH53 chứ không phải 19 chuyến CH46. Gayler báo cho Martin hay, tình báo quân đội Mỹ cho biết cánh Tây Bắc Cộng quân chỉ cách Sài Gòn 20 km, và nói: Ngài định ở lại đón cộng sản sao? Martin làm như không có vấn đề gì, cố đùa, nói, không lo. Sứ quán Mỹ sát ngay Sứ quán Pháp, cùng lắm tôi phóng xuyên tường qua xin Đại sứ Mérillon tá túc. Và nếu bà Mérillon xinh đẹp không đi Ba Lê thì tôi xin tá túc ở phòng bả. Gayler mật báo cho Nhà trắng: Martin chưa chịu kết thúc cuộc di tản, “Ông ta đòi tát cạn cái giếng không đáy.” Vừa xong câu chuyện với Gayler, Martin bỗng đùng đùng chạy bộ về đường Phùng Khắc Khoan, không ai hiểu chuyện gì. Giờ này ông Đại sứ ra đường là cực kì nguy hiểm. Hai trung sĩ cận vệ Jim Daisy và Colin Broussard hớt hải đuổi theo. Hoá ra Đại sứ về tư thất tìm con chó nhỏ Nit Noy lông đen xù, người bạn yêu quí của Janet con gái ông. Martin có bốn con, con trai cả vừa chết vì tai nạn ô tô. Con nuôi Glen Dill Mann, trung uý lái máy bay trực thăng, tử trận ở Tây Nguyên năm 1965, khi ông đang làm Đại sứ Thái Lan. Còn hai con gái là Janet và Nancy, bốn cháu nội, ngoại. Tất cả đều yêu Nit Noy. Martin ôm lấy con Nit Noy quay về Tòa Đại sứ, để lại toàn bộ đồ đạc trong nhà cho bọn hôi của. Khi ấy ở Biên Hoà, Chuẩn tướng Trần Quang Khôi, Tư lệnh lữ đoàn 3 kỵ binh, Quân lực Cộng hòa nhận được điện Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Tư lệnh sư đoàn 18 bộ binh, qua máy bộ đàm PC 25: “Báo anh hay tôi bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm.” Khôi hỏi: “Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì tôi không?” Ðảo đáp: “Tôi hiện ở gần nghĩa trang Quân Ðội, đang rút đi về hướng Thủ Ðức.” Sau đó không còn liên lạc được với tướng Đảo nữa. Người hùng trận Xuân Lộc vang dội khắp Miền Nam, trận duy nhất Quân lực Cộng hoà cầm cự với Cộng quân được ba ngày, bỗng nhiên mất tích. Đồn rầm lên tướng Lê Minh Đảo tử thủ đến cùng và bị bắt. Không phải, tướng Đảo đã giả trang thường dân nhảy xe lam về Sài Gòn. Trên xe có hai bộ đội trinh sát mặc quân phục bộ đội, công khai nói họ là ai và động viên người trên xe cứ bình tĩnh, đừng hoảng sợ. Đến ngã ba Tam Hiệp (Biên Hòa), hai bộ đội nhảy xuống và trả tiền xe đàng hoàng. Tướng Đảo nghĩ bụng, mình thua là phải rồi. Quân mình chưa đánh đã cướp giật tùm lum, quân người ta như vầy. Ông về Sài Gòn trốn biệt không làm gì hết, đợi ngày ra trình diện. 2g30. Trong phòng ngủ cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Dinh Độc Lập, Tổng thống Dương Văn Minh vẫn ngồi thức chờ đoàn đi sứ trở về. 17g30 chiều qua, tức cách đây 7 tiếng, Dương Văn Minh quyết gỡ gạc cú chót cái gọi là “hoà hợp – hoà giải và chính phủ liên hiệp”. Vốn là hậu vệ bóng đá nổi tiếng tuyển Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương, Dương Văn Minh quyết giữ khung thành đến cùng dù khung thành đã bỏ trống, sân bóng chỉ còn mỗi ông và khung thành, trong khi đối phương còn nguyên cả 11 cầu thủ. Ông gửi một sứ đoàn đến trại David, trụ sở của “Phái đoàn quân sự bốn bên” đóng gần sân bay Tân Sơn Nhất, nơi Đại tá Võ Đông Giang đại diện Chính phủ Lâm Thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (CPLTCHMNVN) thường trực. Sứ đoàn gồm có Luật sư Trần Ngọc Liễng, Giáo sư Châu Tâm Luân và Linh mục Chân Tín. Họ đã được Đại tá Võ Đông Giang tiếp đãi lịch sử bằng món chuối chín truyền thống “của nhà trồng được” và trả lời vừa thật lịch sự vừa thật phũ phàng: “Không có chuyện thương thuyết. Chính quyền Cách mạng sẽ xoá bỏ chính quyền Sài Gòn.” Sứ đoàn được mời ngủ qua đêm để tránh bom rơi đạn lạc, khéo léo giữ lại để làm con tin. Ông Minh không nhận được thông tin, chẳng có ai gọi điện cho ông, sốt ruột ông cứ ngồi bó gối trông ra cho đến sáng. Từ trái qua phải: Giám đốc CIA William Colby, Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger và Chủ tịch Ban tham mưu liên quân – Đại tướng George Brown, 19g30 (giờ Hoa Thịnh Đốn) ngày 28.4.1975 khi nghe tin Việt Cộng bác bỏ đề nghị ngừng bắn của Tổng thống Dương Văn Minh. Ảnh: David H. Kennerly. Đại sứ Martin cũng không ngủ. Cú điện thoại của Kissinger dựng Martin dậy vào lúc 2h30. Kissingger yêu cầu “cho Tổng thống biết” con số di tản còn lại cuối cùng tại Toà Đại sứ. Martin nói phứa “ngay và luôn”: cả thảy 729 người bao gồm có 500 người Việt, 173 thuỷ quân lục chiến (TQLC) và 53 người Mỹ dân sự. Kissinger nhẩm rất nhanh, chỉ cần 9 chuyến trực thăng CH53 sẽ bốc hết. Lúc này tại Hoa Thịnh Đốn là 14g ngày 29.4, Kissinger vui vẻ ước tính 2 giờ nữa là xong, ông cho Ron Nessen Thư kí báo chí Nhà Trắng thông báo cuộc họp báo dự kiến lúc 14g sẽ cho lùi lại lúc 16g. Nửa giờ sau Martin lại gửi công điện cho Nhà Trắng cho biết còn 1.100 người Việt chứ không phải 500 người. Kissinger ngao ngán hết nổi, không thể hiểu con số cuối cùng của Martin là sao nữa. Ron Nessen nói đùa, ông Martin sẽ di tản 1.100 người Việt cuối cùng trong số 500 người Việt cuối cùng. Dù biết Martin đang cố di tản càng nhiều càng tốt người Việt, ngoài việc giữ sĩ diện cho nước Mỹ, là một chút tình của ông với người Việt, con ông đã chết trận ở nơi đây. Nhưng không vì thế mà để mặc cho Martin tát “cái giếng không đáy”, tiếp tục báo các con số ma, Tổng thống Ford quyết định chấm dứt cuộc di tản. 3g15. Trực thăng CH46 đáp xuống sân thượng, viên phi công trao cho Martin thư viết tay của Đô đốc Gayler cho biết lệnh Tổng thống: Chỉ có 9 chuyến trực thăng nữa, không hơn. Đại sứ phải lên trực thăng chuyến cuối cùng. Mặt Martin bạc trắng. Eva Kim, thư ký riêng của Đại sứ chào ông và lên máy bay. Đi sau cô là nhà báo George Arthur, phóng viên báo Los Angeles Times trong tay ôm cái bọc nhỏ giấu con Nit Noy. Martin sợ người ta trông thấy con chó ông Đại sứ được lên máy bay trong khi bao nhiêu người Việt đang kẹt lại. 3g30. Kissinger gọi điện cho Martin cho hay kể từ giờ phút này trực thăng chỉ chở người Mỹ di tản. “Ông và các vị anh hùng của ông bây giờ là phải trở về nhà.” Dứt lời Kissinger đặt máy, sợ Martin lại phân bua xin xỏ. Martin biết khi ông chưa lên máy bay thì cuộc di tản chưa chấm dứt, nên ông đã cố dây dưa nhiều lần. Với Kissinger, cuộc di tản là của người Mỹ chẳng của ai khác, kể cả Đại tướng Đại Hàn đang kẹt trong Tòa Đại sứ Mỹ. Như Charles de Gaulle chỉ biết đội nước Pháp lên đầu, dù là người Do Thái, Kissingger vẫn coi nước Mỹ “là riêng là thứ nhất”. Frank Snepp, chuyên viên CIA, tác giả cuốn “Cuộc tháo chạy tán loạn”, kể: Nhiều công chức ở Nhà Trắng nói, nếu dân Mỹ ai cũng như Kissinger thì quốc kỳ Mỹ không cần vẽ 50 ngôi sao mà vẽ một con rắn với lời chú: “Xin đừng giẫm lên tôi.” Vậy mà ngài Ngoại trưởng còn than thở với các nhà báo, nếu biết trước việc cắt giảm viện trợ của Quốc hội Mỹ, (thì ông) đã không thương thuyết Hiệp định Paris. Lời than sặc mùi đạo đức giả. 3g40. 12 chuyên viên cuối cùng của Tòa Đại sứ lên máy bay, trong có Frank Snepp, ông viết: “Máy bay vượt qua trung tâm Thành phố, theo đường Vũng Tàu, con đường quen thuộc Chủ nhật tôi vẫn thường đi. Máy bay vừa qua Biên Hòa, rẽ vào hướng Đông, thì tôi thấy kho Long Bình nổ, một loạt nấm nhỏ nguyên tử bốc lên. Trên hệ thống đường từ Sài Gòn đi Xuân Lộc, hàng nghìn xe vận tải, xe tăng, chắc là của Bắc Việt Nam, đang chạy từ từ về Biên Hòa, xe nào cũng sáng đèn.” 3g45. Tom Polgar, trưởng chi nhánh CIA tại Sài Gòn, gửi công điện về Nhà Trắng: “Chúng tôi đề nghị đóng cửa Tòa Đại sứ lúc 4g30 vì còn nhu cầu phá huỷ hết máy móc truyền thông. Đây là công điện cuối cùng của Tòa Đại sứ Sài Gòn.” Martin đi xuống sân Tòa Đại sứ. Còn 420 người Việt đang chầu chực được lên máy bay. Ông bị viêm phổi, nói không còn ra tiếng: “Kể từ giờ này sân thượng đón máy bay CH46 chở người Mỹ, còn máy bay CH53 lớn hơn sẽ đáp xuống đây đón quí vị.” Đó là lời nói dối cuối cùng của ông Đại sứ với người Việt. Sau đó đám lính TQLC lùa hết người Việt xuống sân, họ chốt hết các cửa cầu thang lên sân thượng. Tiếng la hét rân trời của 420 người Việt, họ biết ông Đại sứ nói dối. Martin đứng ngây như kẻ điếc. Chiến tranh làm người Sài Gòn nhạy bén hơn về sự nói dối, làm người Mỹ dối trá thành thục hơn. 4g42. Chiếc CH46 có tên “Lady Ace 09” viết bằng sơn xanh hai bên hông, đáp xuống sân thượng Tòa Đại sứ. Viên phi công to như con gấu, Đại úy Jerry Berry hiền lành cố làm ra vẻ lạnh lùng nói với Martin: “Thưa ngài, Tổng thống Ford ra lệnh cho tôi đưa ngài lên trực thăng này, nếu ngài không tự nguyện leo lên. Đây là lúc phải rời đi.” Martin hiểu nếu ông không chịu đi thì chính viên phi công này sẽ bế ông lên ném vào máy bay. Graham Martin cúi mặt để cho Jerry Berry dìu lên trực thăng. Sau ông có Tuỳ viên báo chí John Hogan, Chi nhánh trưởng CIA Tom Polgar và Đại tá George Jacobson, cố vấn đặc biệt của Đại sứ. Như một xác chết di động, Martin lần từng bước lên cầu thang máy bay. Người đàn ông miền Nam nước Mỹ cao ráo đẹp trai như một cao bồi xinê, quyến rũ đến nỗi phu nhân tướng John Murray, chỉ huy quốc phòng Mỹ tại Sài Gòn, đã phải rên lên: “Không có ai đáng mê bằng Martin!”, hơn hai năm ở Việt Nam đã thành cái xác không hồn, da dẻ tái nhợt mặt mày xám xịt. Đôi mắt từng làm rụng cuống tim bao nhiêu phụ nữ giờ đây u tối lạnh lẽo. Qua pha đèn người ta thấy ông Đại sứ đang lên máy bay, 420 người gào thét thất thanh réo gọi tên ông. Vì một tai nạn giao thông, Martin không quay được từ trái ra phía sau, trong khi cầu thang máy bay chếch về hướng phải, ông không nhìn được sau lưng mình 420 người Việt lần cuối. Martin!… Martin! Tiếng kêu đau đớn giận dữ xé rách Sài Gòn nửa đêm về sáng, khiến trời cũng phải khóc. Một cơn mưa nhẹ rải khắp Sài Gòn. Ở Xóm Lách Duyên Anh đứng giữa sân ngửa mặt đón cơn mưa. Ông viết: “4g30: Trời lất phất mưa. Không phải sương rây. Sẽ xảy ra chuyện gì những giờ sắp tới?”. 4g48. Máy bay “Lady Ace 09” rời nóc Toà Đại sứ. Trên cao, sở chỉ huy nhỏ trong máy bay C130 phát tín hiệu: “Cọp (Tiger)!! Cọp! Cọp!”. Nhận được tín hiệu báo tin ông Đại sứ đã bay, Đô đốc Noel Gayler gọi cho Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger, Schlesinger báo cho Bộ trưởng Ngoại giao Kissinger. Lúc ấy ở Hoa Thịnh Đốn là 17g, Kissinger bước vào phòng họp báo với vẻ tự tin sảng khoái, ông nói: “Đại sứ của chúng ta đã ra đi, và cuộc di tản có thể được nói là hoàn tất.” Một nhà báo hỏi ngay: “Không còn một người Mỹ nào ở Sài Gòn?”. Kissinger đáp: “Đúng vậy”. Tiếng vỗ tay rần rần. Các nhà báo rào rào túa đi gửi tin. 5g. Sài Gòn đang ngủ, chưa thấy nhà ai mở cửa. Đường phố vắng hoe. Không lẽ cơn hôi của điên khùng chiều hôm qua khiến mọi người khó ra khỏi giường giờ này? Không phải. Số hôi của không tới một phần nghìn. Nhà báo Jean Lartéguy nói đúng: Giờ này 3 triệu người Sài Gòn đang nín thở dò đài Giải Phóng để nghe phản ứng hoà hay đánh từ phía bên kia. “Phía bên kia” hết thảy đang thức, đại quân tướng Dũng đang hăm hở tiến quân. Sách “Một thời nhiễu nhương” của Bạch Hạc Trần Đức Minh cẩn thận chép: “Vào lúc 5 giờ sáng ngày 30 tháng 4 các cánh quân của Quân đội Bắc Việt đồng loạt tiến công.” Cả thảy năm cánh quân. Cánh quân Tây Bắc tiến đánh phi trường Tân Sơn Nhất. Cánh quân phía Bắc tiến chiếm Bộ Tổng tham mưu. Cánh quân Tây Nam tiến chiếm Bộ Tư lệnh biệt khu Sài Gòn và Tổng nha Cảnh sát. Cánh quân phía Đông từ Biên Hoà theo Quốc lộ về Sài Gòn. Cánh quân Đông Nam từ cầu Đồng Nai theo xa lộ Biên Hoà về Dinh Độc Lập. 6g00. Hoa Thịnh Đốn là 18g. Kissinger vừa ra khỏi phòng họp báo gặp ngay Chánh văn phòng Nhà Trắng Donald Rumsfeld, ông này nói vừa nhận được điện của Schlesinger, hãy còn 11 người lính TQLC canh giữ Tòa Đại sứ. Kissinger phát điên quát tháo ầm ĩ, chửi thẳng cái tên Schlesinger. Chửi rồi bỏ đi, không thèm quay lại phòng họp báo đính chính. Donald Rumsfeld kể, ông đã trực tiếp gặp Tổng thống Ford, nói: “Cuộc chiến tranh này đã có quá nhiều lời nói dối. Không nên chấm dứt cuộc chiến bằng một lời nói dối.” Ford đồng ý để cho Thư kí báo chí Nhà Trắng Ron Nesson đính chính lại điều này. 6g30. Hoa Thịnh Đốn là 18g30. David Hume Kennerly, Nhiếp ảnh gia Tổng thống Ford chụp được bức ảnh thời khắc Kissinger và Brent Scowcroft, Phó cố vấn an ninh quốc gia cùng đưa tay xem đồng hồ. Họ đang chờ đợi thông tin 11 lính TQLC đã được cứu khỏi Tòa Đại sứ Sài Gòn hay chưa. Tổng thống Ford coi Kennerly như người nhà. Nhờ vậy mà Kennerly được sang Việt Nam chuyến 20.4.75 và ông có cả một chùm phóng sự ảnh để đời về Việt Nam những ngày cuối cùng của cuộc chiến, xứng danh nhiếp ảnh gia giải Pulitzer. Trước khi đi Việt Nam, vì buổi tối không rút được tiền, Kennerly hỏi mượn Ford và bất ngờ thâý trong ví tổng thống số một thế giới còn có mỗi 47 đô. 27.4 Kennerly trở về, ông trả lại Ford 47 đô cùng thông báo: “Tin tốt là chiến tranh đã qua đi. Tin xấu là chúng ta đã bị thua.” Kissinger và Brent Scowcroft cùng đưa tay xem đồng hồ. Ảnh David Hume Kennerly. 7g. Trung tướng Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng; Trung tướng Trần Văn Trung, Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị; Đại tá Trần Ngọc Huyến và một số sĩ quan khác lên đoàn xe rời Bộ Tổng tham mưu đến Công xưởng hải quân, dùng một chiếc tàu hư duy nhất còn để ở xưởng vượt sông Sài Gòn ra biển. Tướng Vĩnh Lộc thay chức Tổng tham mưu trưởng của Đại tướng Cao Văn Viên. Đại tướng Viên đã bỏ chạy chiều ngày 28.4 cùng với Chuẩn tướng Trần Văn Thọ, Trưởng phòng 3 Bộ Tổng tham mưu. Tướng Viên ra đi để lại đơn từ chức đặt lên bàn làm việc, lấy trụ cờ hiệu nhỏ dằn lên. Không ai biết ông đi lúc nào, kể cả viên phi công lái máy bay trực thăng cho ông. Đáng ra Cao Văn Viên nên từ chức Tổng tham mưu trưởng ngay khi ông vừa nhậm chức này năm 1972. Olivier Todd, tác giả cuốn “Tháng Tư nghiệt ngã”, nhận xét: “Từ năm 1965 đến 1973, các tướng tá ở Miền Nam trong tất cả mọi cuộc hành quân từ nhỏ tới lớn, từ việc đi tuần tiễu, đi mở đường, nằm đường, đến các cuộc tìm và diệt địch, chạm súng, chiều ngang hay chiều sâu, nhảy dù hay trực thăng vận v.v. tất cả đều có nhu cầu được hoả lực pháo binh, trực thăng vũ trang hay oanh tạc cơ yểm trợ tối đa, nếu không được pháo đài bay B52 từ Thái Lan, đảo Guam hay từ Phi luật Tân qua trải thảm trước… Họ đã quá tùy thuộc và còn đang tùy thuộc vào hỏa lực yểm trợ của phi pháo và không trợ.” Một quân đội ra trận kiểu đó đến Chúa làm tư lệnh Bộ Tổng tham mưu cũng chào thua. Napoléon nói rồi: “Chúa chỉ đứng về phe nào có các tiểu đoàn lớn nhất, mạnh nhất”, chứ không phải các đội quân chưa xông trận đã cầu viện. Tướng Viên nhìn nhận Bộ Tổng tham mưu của ông chỉ có nhiệm vụ tư vấn mà thôi, mọi việc đã có Tổng thống Thiệu bắt tay chỉ ngón. Bất kì lúc nào cấp dưới đề đạt lên, ông chỉ có hai câu: “Anh đã trình Tổng thống chưa?”, “Anh cứ trực tiếp làm việc với Tổng thống đi.” Tổng thống cũng không bằng người Mỹ, khi các tướng tuỳ viên quân sự Mỹ, John Murray hay Fred Weyand, gọi sang, ông chỉ có hai tiếng: “OK, thanks!”. Đại tướng Cao Văn Viên quá hiểu quân đội của ông đánh đấm theo châm ngôn Hoa Kỳ: “Ai chi tiền người ấy chỉ huy”. Thế thì chiều 28.4 tướng Viên mới ra đi là quá trễ. Tướng Lộc cầm chức tướng Viên liền đọc Nhật lệnh nghiêm trị những quân nhân đào ngũ, gọi các tướng bỏ nước cầu vinh là những kẻ phản bội. Sài Gòn lại lên cơn hy vọng. Vĩnh Lộc mê văn Duyên Anh, thuộc lòng vài cuốn sách của Duyên Anh khiến nhà văn hết sức mến yêu và tin tưởng vị tướng này. Vào giây phút tướng lĩnh đua nhau tháo chạy, tối qua trên màn ảnh nhỏ của đài Truyền hình Việt Nam băng tần số 9, tướng Vĩnh Lộc đang chắp tay sau lưng đi đi lại lại mắng mỏ kẻ bỏ chạy, Duyên Anh nức nở mừng thầm: “Của tin còn một tướng này làm ghi”. Ai dè sáng nay tướng Vĩnh Lộc cũng chạy nốt. Dù gì Tướng Vĩnh Lộc cũng là một trong các tướng tá bỏ chạy muộn nhất, chỉ khi nước đến chân mới chịu nhảy. Tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thề với Đài BBC: “Tôi còn cái quần đùi cũng ở lại Việt Nam đánh nhau với cộng sản” đã bỏ chạy từ 10g sáng hôm qua bằng trực thăng Huey của riêng ông. Tướng Kỳ còn lôi theo cả tướng Ngô Quang Trưởng, vị tướng tài ba nhất Quân lực Cộng hòa, người đã từng thề trước ba quân: “Ai muốn lấy Đà Nẵng hay bước qua xác Trưởng này.” Con rể nhà văn Thạch Lam từ khi đáp xuống Soái hạm Blue Ridge tự nhiên cấm khẩu, cứ đứng yên một chỗ nhìn vô bờ, ai hỏi gì cũng không nói. Nguyễn Cao Kỳ (giữa), Ngô Quang Trưởng (phải) vừa đáp trực thăng xuống tàu sân bay Midway ngày 29.4.1975 (sau đó được đưa sang soái hạm Blue Ridge). Ảnh: Internet. 7g30. 11 Lính Mỹ TQLC trên nóc Tòa Đại sứ chờ đợi mòn mỏi hơn hai giờ, đến nỗi họ tính phải chui qua Đại sứ Pháp xin tị nạn. Cuối cùng máy bay cũng đã đến. Chiếc CH46 đáp lên nóc, vẫn Đại úy Jerry Berry đón họ. Viên phi công này đã bay 18 giờ rưỡi trong tổng số 20 giờ của Chiến dịch Frequent Wind. 11 lính Mỹ cuối cùng leo lên trực thăng cuối cùng. Trung sĩ Juan Valdez đẩy đít người đi trước và hét lên: “Tôi là người cuối cùng!”. Máy bay cất cánh lúc 7g53 phút, vừa lúc nhiều người Việt leo lên được nóc Tòa Đại sứ. Họ lao vào trực thăng CH46 khi nó đã bay lên. Thế là hết. Những người Việt bị bỏ rơi cuối cùng nằm sấp ngửa ngổn ngang trên sân thượng, lặng ngắt. Giờ ấy Hoa Thịnh Đốn là 20g01 29.4. Tổng thống Ford lẻn khỏi bữa tiệc tối chiêu đãi Quốc vương Jordan, ngài Hussein, tới Phòng đưa đón khách của Nhà Trắng sát ngay đó để nhận điện thoại Bộ trưởng Quốc phòng Schlessinger báo tin về 11 lính Mỹ TQLC đã được cứu thoát. Kennerly cũng chụp được ảnh này, ông viết: “…sự dính líu của Mỹ tại Việt Nam giờ đã thực sự chấm dứt. Tổng thống cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm.” Nhưng đó cũng chỉ là tin vịt. Còn nhiều người Mỹ ở Miền Nam vì nhiều lý do khác nhau đã không tham gia cuộc di tản. Sách “Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà”, nhà nghiên cứu Lịch sử – Mỹ thuật, giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ chép: “Những người bị bỏ lại có cả 70 người Hoa-Kỳ, một số khá lớn những người Việt làm việc cho Tòa Đại sứ đến phút cuối cùng. Họ được hẹn đến điểm tập trung nhưng không thấy xe bus và trực thăng đến đón. Ngoài ra họ còn bỏ quên hai xác của TQLC Mỹ chết trong vụ pháo kích ở trụ sở DAO và còn quàn tại nhà Bịnh viện Cứu thế.” Hai lính TQLC Mỹ này là Hạ sĩ Darwin Judge và Hạ sĩ Charles McMahon. Họ mới đến Sài Gòn hơn chục ngày để phục vụ di tản và trúng đạn pháo 130 ly vào lúc 4g30 sáng ngày 29.4. Hạ sĩ Darwin Judge (trái) và Hạ sĩ Charles McMahon. Hai lính Mỹ chết trận cuối cùng ở Việt Nam. Ảnh: Alan Dawson. Trong số 70 người Mỹ nói trên có một trung uý Mỹ, không rõ tên gì. Dân đường Yên Đổ (nay là Lý Chính Thắng) thấy ông chiều 29.4 nhảy lên nóc nhà cầm cái chổi phất trần xua đuổi những trực thăng Mỹ đi đón dân di tản bay tới, hét thật to: Cục cứt! Cục cứt… Cút! Cút! 8g. Sài Gòn tứ phương súng nổ. Quân tướng Dũng chiếm thế thượng phong. Tăng bộ đội bao vây bốn hướng. Tăng sư 304 vượt được cầu Long Bình. Tăng đại đội 7 tiểu đoàn 5 trung đoàn 24 sư đoàn 10 chiếm được Bệnh viện Vì Dân. Bộ đội sư 323 đánh bật sư 25 Quân lực Cộng hòa chiếm được Khiên Cương, đang tiến vào Xa lộ Đại Hàn. Tăng của Binh đoàn I đang đánh vào Bến Cát. Nội thành Sài Gòn vẫn yên tĩnh. Đường Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu) nhiều quán phở gà vẫn mở. Đường Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo B) khách vẫn vào ra các quán hủ tiếu. Đường Nguyễn Văn Thinh (nay là Mạc Thị Bưởi) vẫn đầy những quán bánh mì. Quán cà phê hai vỉa hè đường Nguyễn Huệ vẫn đông Khách. Sáng nay Sài Gòn hầu như không quán cà phê nào đóng cửa dù đường phố có vẻ vắng hơn ngày thường. Sài Gòn thật lạ. Yên hàn chỉ một tiếng súng là bao nhiêu người bu tới xúm đen xúm đỏ, giờ súng nổ rân trời ai nấy tỉnh như không. Đường phố nhiều nhà đóng cửa, nhà nào còn ở lại gia chủ vẫn ra sân thong thả tưới hoa. Ở nơi đang diễn ra chiến sự, cà phê vỉa hè vẫn có người ngồi. Thấy bộ đội ôm súng rật rật chạy qua người ta chỉ dè dặt ngó theo, không ai hoảng sợ bỏ chạy. Có người còn vui vẻ gọi với: “Quí anh giải phóng mạnh giỏi!”, “Cà phê đã mấy chú Giải phóng ơi!”… Lúc này ở Dinh Thủ tướng số 7 Đại lộ Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn), Tổng thống Dương Văn Minh họp Tân nội các của Vũ Văn Mẫu, ông nói: “Để tránh cho người dân Sài Gòn những tai hoạ đã xảy ra như ở Đà Nẵng, mà còn có thể tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho Chính phủ Lâm thời Miền Nam Việt Nam”. Không ai lên tiếng phản đối hay đồng tình. Im lặng như một nấm mồ. Thế là hậu vệ Thủ Dầu Một quyết định không chỉ trao cầu môn mà trao cả sân bóng cho đối phương. 8g30. Vẫn như mọi ngày Phạm Xuân Ẩn ngồi ở café Givral nằm ở góc đường Tự do (nay là Đồng Khởi) và Lê Lợi. Quán cà phê trứ danh, từng được Graham Green đưa vào tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng”. Và những vị khách trứ danh, trong đó có “Điệp viên hoàn hảo” khét tiếng Phạm Xuân Ẩn và con chó Berger biết nghe tiếng Pháp. Lúc này không có Cao Giao, Trịnh Công Sơn hay những người bạn khác, ông Ẩn ngồi một mình trầm ngâm. Giờ này ông vẫn trong vai phóng viên báo Time. Vợ con đã gửi sang Mỹ, mình ông ở lại cùng con chó Berger. Ai hỏi vì sao không đi ông đều bảo bà già đang ốm. Kỳ thực ông ở lại để đón ông Mười Hương, chỉ huy trực tiếp của ông. Nhờ bám trụ đến cùng café Givral, Phạm Xuân Ẩn đã cứu được Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ Đệ Nhất cộng hòa thời Ngô Đình Diệm một bàn thua trông thấy. Vì chủ quan nghĩ rằng cỡ như ông người Mỹ không bao giờ bỏ, Trần Kim Tuyến bỏ mất nhiều cơ hội để ra đi. Vợ của ông, bà Jackie, và các con đang ở Singapore, ông Tuyến nhởn nhơ đến ngày 29.4 mới biết người Mỹ đã cho ông nhỡ tàu. Thế cùng ông phải chạy đến nhờ Phạm Xuân Ẩn. Suốt ngày 29.4 ông Ẩn không cách gì đưa được ông Tuyến vào trong Toà Đại sứ. 16g, khi đã tuyệt vọng, thốt nhiên ông Ẩn nhớ đến trùm CIA ở Sài Gòn, ông Thomas Polgar. Lập tức ông gọi cho Polgar. “Đưa ngay đến 22 Gia Long, nhanh lên, chuyến bay cuối cùng đó!”, Polgar đáp gọn. 22 Gia Long (nay là Lý Tự Trọng) là tư thất của John Pittman, phó của Polgar. Đây là nơi CIA Mỹ dùng để đón những cộng tác viên của họ để di tản. Phạm Xuân Ẩn kéo Trần Kim Tuyến chạy đến 22 Gia Long vừa lúc cửa kéo đang từ từ hạ xuống. Ông Ẩn lao tới đỡ lấy cánh cửa khi nó còn cách mặt đất chừng 1m, hét lên: “Theo lệnh của Đại sứ, phải cho người này vào!”. Không cần biết lính bảo vệ đồng ý hay không, Phạm Xuân Ẩn miệng nói tay đẩy ông Tuyến chui vào. Thân già da cóc, ông Tuyến chạy cầu thang bộ lên sân thượng đến cầu thang máy bay thì kiệt sức, không leo lên được, nằm sấp dưới chân cầu thang. Từ trên máy bay Trung tướng Trần Văn Đôn trông thấy, ông tụt xuống cầu thang quắp lấy Trần Kim Tuyến, cứ thế chạy ngược lên máy bay. May ông Tuyến nhỏ bé ông Đôn còn quắp được. Chuyến trực thăng cuối cùng ở 22 Gia Long cất cánh đúng 18g20. Chuyện như phim hành động. Nhiều người nhầm đây là nóc nhà Toà Đại sứ, không phải, nó là nóc nhà 22 Gia Long. Vào lúc 18g ngày 29.4.1975 người cuối cùng là ông Trần Kim Tuyến. Khi đó Trung tướng Phó Thủ tướng – Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn đã leo lên được máy bay. Ảnh Hubert Van Es. Ngã Bảy Chuồng Bò (quận 10) dân chúng đã căng biểu ngữ: “Hoan hô Quân giải phóng chiến thắng!”. Nhiều cờ xanh đỏ của Mặt trận Giải phóng, có cả cờ đỏ sao vàng. Từ hôm qua đến giờ này Sài Gòn chỉ có hai loại cờ, một là ở những công sở người ta treo những tấm vải trắng ngụ ý cờ trắng, hai là cờ tam tài của Pháp ở những công thự nước ngoài. Ngã Bảy Chuồng Bò là khu vực cắm cờ giải phóng sớm nhất. Sau tuyên cáo đầu hàng của Dương Văn Minh, khu vực này rợp cờ xanh đỏ và cờ đỏ sao vàng. 9g. Dương Văn Minh tiếp ông François Vanuxem, tướng Pháp hồi hưu, thạc sĩ triết học. François Vanuxem từng có nhiều cố vấn cho cả Diệm và Thiệu. Ngồi cạnh ông Minh là Lý Quý Chung vừa được đưa vào Chính phủ Vũ Văn Mẫu, chức Tổng trưởng, tức Bộ trưởng, Bộ Thông tin. Tướng Vanuxem cố vấn cho Tổng thống Minh chạy sang phía người Tàu. Nếu Chính quyền Việt Nam Cộng hoà lên tiếng cầu cứu người Tàu, người ta sẽ đem quân đánh chiếm Miền Bắc để Việt Nam Cộng hoà có cái mà thương thuyết. Không biết đúng sai thật giả ra sao, ông Minh nghe đến người Tàu đã nhăn mặt. Ông lịch sự chối khéo, đuổi khéo. Vanuxem vừa quay lưng ông Minh đã quay lại cười cười nói với Lý Quý Chung: “Mình làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, giờ còn làm tay sai cho Tàu, chắc chết.” Nghe sao mà thương. 9g30. Ông Vũ Ánh, Giám đốc Sở Thời sự Đài phát thanh Sài Gòn, người trực Đài suốt ngày đêm kể từ ngày 28.4 khi mà lãnh đạo nhà đài đã bỏ chạy. Trong bài “Giây phút hấp hối của Việt Nam Cộng hòa”, Vũ Ánh kể: “Chúng tôi uống cà phê, ăn mì gói, hút thuốc đến khoảng 9 giờ 30 (sáng 30-4) vừa định vào phòng tin tức thì Thư ký trực hốt hoảng chạy từ trên lầu xuống: “Ông ơi, văn phòng Tổng thống điện thoại xin cử người sang thâu băng hiệu triệu”.Vừa lúc ấy nữ phóng viên Yến Tuyết vào đài. Cô đòi đi theo kỹ thuật viên sang thu thanh nhưng tôi không cho. Tôi chỉ định Lê Phú Bổn và một kỹ thuật viên là anh Hồ Ổn sang Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất, Tổng thống Dương Văn Minh và Nội Các chờ họ ở đó. Bổn thu thanh và mang vào Đài vài phút trước 10 giờ sáng và nói: “Đầu hàng rồi. Tổng thống lệnh cho phát ngay, không cần hoàn chỉnh”. Tôi đưa cuốn băng cho Vũ Thành An. Nội dung cuốn băng chỉ dài chưa đầy 5 phút, trong đó Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Bản hiệu triệu này do chính Tổng thống Dương Văn Minh đọc theo một script do chính ông viết trên một mảnh giấy. Nhưng cuốn băng chỉ phát được một lần vào lúc 10 giờ 15 phút sáng 30-4-1975.” Ông Vũ Ánh nói Đài phát thanh Sài Gòn chỉ phát bản “Hiệu triệu” một lần, tại sao người ta nghe được nhiều lần? Ấy là vì các Đài phát thanh Giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài BBC và Đài VOA đã thu từ Đài Sài Gòn và phát lại nhiều lần. 9g45. Trước khi sang Dinh Độc Lập để đón “Phía bên kia”, Tổng thống Dương Văn Minh nói với Tân nội các: “Bắt đầu từ giờ phút này sự ràng buộc giữa anh em chúng ta không còn nữa. Mỗi người hoàn toàn tự do theo quyết định sự chọn lựa của mình.” Không ai khóc cũng không ai cười. Sau đó Dương Văn Minh và Tân nội các sang Dinh Độc lập. Toàn bộ tám chiếc mô tô cảnh sát danh dự, hộ tống xe Tổng thống. Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng Dương Văn Minh được hưởng chế độ vi hành trên đường phố của một Tổng thống. 10h15. Đài phát thanh Sài Gòn phát bản “Tuyên cáo” đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh. Nhà sử học trứ danh Tạ Chí Đại Trường trong cuốn “Một khoảnh Việt Nam Cộng hoà nối dài” đã chép: “…lúc radio loan tin Tổng thống Dương Văn Minh loan báo “chờ bàn giao chính quyền”, tôi bật dậy: “Đầu hàng rồi!”. Cả hẻm ồ lên: “Hết chiến tranh!”. Giản dị quá.” 10g30. Bộ đội trung đoàn 24 sư đoàn 10 chiếm được cổng số 5 Sân bay Tân Sơn Nhất. Lính Cộng hoà ôm súng ngồi ngẩn, họ đã nghe tuyên cáo của Tổng thống. Bộ đội cũng đã biết tuyên cáo này, họ đối xử rất nhẹ nhàng với lính Cộng hoà. Bộ đội tập trung tù binh lại yêu cầu lính Cộng hoà nộp vũ khí, cởi hết quân phục, rồi ai về nhà nấy. Lính Cộng hoà làm theo nhưng rất ít người về. Họ ngồi lại, không ai nói với ai, có người khóc. Lữ đoàn 203 tăng – thiết giáp qua cầu Sài Gòn. Một dàn tăng M48 của lính Cộng hoà nghênh chiến. Tàu chiến Quân lực Cộng hòa giữa sông đang lao tới. Đúng lúc Dương Văn Minh đọc tuyên cáo. Tất cả khựng lại. Thừa dịp tăng Lữ đoàn bộ đội 203 tiến vào Hàng Xanh, chục chiếc tăng chia làm hai ngả. Năm chiếc vào đường Hồng Thập Tự (nay là Xô Viết Nghệ Tĩnh và Nguyễn Thị Minh Khai), năm chiếc vào đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ). Cả hai cánh đều hướng về Dinh Độc Lập. Một trung đội lính Cộng hoà ngồi dưới chân cầu Sài Gòn, họ hút với nhau một điếu thuốc rồi giải tán. Giản dị như cày xong thửa ruộng. Khắp các đường phố ngổn ngang áo quần mũ mão giày dép lính Cộng hoà. Từng tốp năm ba người lính Cộng hoà mặc quần đùi lủi thủi đi bên vỉa hè. Nhà báo Jean Lartéguy, tác giả cuốn “Vĩnh biệt Sài Gòn”, kể về ít phút sau lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh trên Đài phát thanh Sài Gòn, ông viết: “Và bỗng nhiên, từ nơi quan sát, tôi trông thấy một đơn vị Dù (Quân lực Cộng hòa) di chuyển dọc hai bên đường Catinat (nay là đường Đồng Khởi) theo đội hình chiến đấu. Súng cầm tay, họ điều động trong một trật tự hoàn hảo. Khi các sĩ quan ra dấu, họ ngừng lại, núp sau những cánh cửa rồi tiến lên. Sắp giao tranh tại Sài Gòn chăng? Trông những người lính này quyết tâm lắm. Khi tới ngang nhà hàng Continental họ quẹo về hướng chợ Bến Thành. Một hiệu lệnh được ban ra. Thế là họ trút bỏ hết quân phục và khí giới với đồ trang bị rồi bỏ chạy.” Sau tuyên bố tan hàng của Dương Văn Minh, một đại tá Quân lực Cộng hòa và hơn 100 biệt động quân rút về Đại học Vạn Hạnh, định chiếm nơi này làm nơi tử thủ. Nguyễn Hữu Thái, nguyên Chủ tịch Hội Sinh viên Sài Gòn, cùng nhiều sinh viên đã ngăn cản nhóm biệt động quân này. Đại tá ra lệnh cho các biệt động quân bỏ khí giới và quân phục. Nguyễn Hữu Thái đã cấp cho mỗi người một giấy chứng nhận ronéo, ghi: “Binh sĩ này đã nộp súng và được phép về nhà”. Ký: Uỷ ban sinh viên – học sinh Cách mạng. 11g. Chiến sự ở Tân Sơn Nhất đã tạm yên, bộ đội đã làm chủ hoàn toàn. Cổng chính vào sân bay nhiều lính Cộng hoà mặc quần đùi túm tụm đứng ngồi hút thuốc uống nước. Gần đấy có bức tượng nhỏ tạc lính Mỹ TQLC với hàng chữ: “Sự hy sinh cao cả của Người lính đồng minh không bao giờ bị lãng quên”. Nghe nói Tổng thống Thiệu cho dựng tượng này vào năm 1970 để nhớ những lính Mỹ chết trong chiến tranh, chủ yếu để nịnh Mỹ. Giờ này ông chủ bức tượng lính Mỹ kia, cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đang ăn cơm với anh trai là Đại sứ Nguyễn Văn Kiểu ở Đài Bắc. Không biết trong bữa cơm ông Thiệu nói những gì, chắc chắn sẽ có chửi Mỹ trong câu chuyện. Năm 1973 sau Hiệp định Paris ông Thiệu đã chửi Kissinger là “Thằng chó đẻ”. Tất nhiên là chửi sau lưng nhưng Kissinger nghe được, ông thề sẽ không bao giờ ghé lại Sài Gòn. Tổng thống Richard Nixon ra sức xoa dịu Kissinger, dỗ như dỗ con nít, nói: “Không có gì đâu. Rồi ông sẽ thấy ông không phải là con chó đẻ.” Giờ này ngày hôm qua 29.4, bà Anna Chennault từ Mỹ bay sang Đài Bắc gặp Thiệu. Người đẹp quí bà này là quả phụ tướng Claire Chennault – Cựu tư lệnh Không đoàn 14 Phi Hổ (Flying Tigers) nhóm tình nguyện của Mỹ nổi tiếng trong Đệ nhị thế chiến (ông này đã tặng ảnh có chữ kí cho Hồ Chí Minh năm 1945 ở Côn Minh, nhờ vậy mà thiên hạ đồn rầm lên Việt Minh được Mỹ ủng hộ). Chồng chết, bà Anna Chennault hoạt động lobby cho Đài Loan với Mỹ, năm 1968 bà đã xúi Thiệu tẩy chay Hội nghị Paris giúp Richard Nixon Đảng Cộng hoà đả bại Hubert Humphrey Đảng Dân Chủ, đắc cử Tổng thống. Bà Chennault gửi lời nhắn của Nhà Trắng không cho Thiệu tị nạn: “Tổng thống nên đi nơi khác, nhưng gia đình có thể vào Hoa Kỳ được.” Mỹ có đem kiệu rước ông Thiệu cũng không thèm vào đất nước của “Thằng chó đẻ”. Ông Thiệu nhếch mép cười, nói: “Làm kẻ thù của Hoa Kỳ thì dễ, nhưng làm bạn của họ thì thật khó.” Khó dễ tuỳ ở ông, khi người ta không muốn làm bạn với ông nữa thì khó lắm. Nữ ký giả Ý Oriana Fallaci xếp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào một trong 10 lãnh tụ giỏi nhất thế giới. Lãnh tụ giỏi nhất thế giới coi “Tổ quốc” của ông tương ứng với các khoản viện trợ Mỹ. 1,4 tỷ đô từ sông Bến Hải vào đến Mũi Cà Mau. 1,1 tỷ đô “hy sinh” 5 tỉnh phía Bắc, từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi. 900 triệu đô “hy sinh nốt 7 tỉnh Cao nguyên và 5 tỉnh duyên hải Nam miền Trung. 750 triệu đô “Tổ quốc” của ông Thiệu “Đầu nhỏ đít to” Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long và cái đầu nhỏ Tuy Hoà. Từ “Quyết không nhường một tấc đất” đến “Giữ được bao nhiêu hay bấy nhiêu”, ông Thiệu đã “bảo vệ Tổ quốc” theo cách các cò đất. “Ta có thể ví sự mất tiền xấp xỉ như mất đất vậy”, chân lý của tướng John Murray cũng là chân lý “cò đất” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Chân lý ấy chống lại “Tổ quốc” của ông Thiệu nhưng giúp ông và tướng lĩnh kiếm được khẳm tiền. Khi bỏ nước ra đi, ông Thiệu chỉ mang theo 200 ngàn đô và một ít nữ trang của phu nhân Tổng thống, bà Nguyễn Thị Mai Anh. Nhưng sách “55 ngày & 55 đêm – Cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa” của Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu, cho hay: “Ngoài số vàng 5 triệu Mỹ kim ở Thuỵ Sĩ, tài sản Thiệu thu thập được qua việc trộm của công, buôn lậu nha phiến, vàng bạc, kim cương, và buôn bán các chức vụ Chánh Án, Tỉnh Trưởng, Tư Lệnh Sư đoàn, v.v. ước lượng vào khoảng 50 triệu Mỹ kim. Đường dây chuyển ngân là Công ty Hàng Không Việt Nam, do sui gia của Thiệu chỉ huy.” Ông Thiệu và hệ thống ươn hèn vì tham nhũng của ông đã cho Quốc hội Mỹ một câu trả lời trước yêu cầu của Tổng thống Ford 722 triệu đô viện trợ quân sự và 250 triệu đô viện trợ kinh tế ngày 19.4.75, là: “Get out, fast” (Rút ngay, thực nhanh), không có câu trả lời thứ hai. 11g15. Tổng nha Cảnh sát tan hàng không còn một ai. Ông Thái Doãn Mẫn kể, khi cánh quân Ban an ninh T4 của Thành Uỷ Sài Gòn do ông dẫn đầu vào tới đây thì đã vắng vẻ. Một nồi cơm điện ăn chưa hết, cơm hãy còn nóng. Trường đua Phú Thọ, hai xe tăng T54 bộ đội và M48 Quân lực Cộng hòa đấu nhau. Cả hai đều cháy dính vào nhau. Lính hai xe không ai sống sót. Lăng Cha Cả một dàn xe tăng M48 Quân lực Cộng hòa sáu chiếc dàn hàng ngang đứng trơ giữa đường, lính tráng chạy đâu cả. Sách “Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà” của Nguyễn Khắc Ngữ chép: “Trên đường Gia Long, hai xe vận tải nhà binh chế tạo tại Nga mang hiệu Motolova, cho một trung đội Việt Cộng (VC) mặc quân phục đến chiếm Bộ Quốc phòng. Khi bộ đội VC chạy vào Bộ Quốc phòng thì một Trung tá Việt Nam Cộng hoà đang đứng ở cột cờ rút súng toan tự tử. Các bộ đội VC vội vàng chạy lại ôm lấy ông ta và giật lấy súng. Đó là Trung tá Nguyễn Văn Cung, một sĩ quan tác chiến thuộc sư đoàn 18 Bộ binh. Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Nguyễn Văn Cung cùng ba sĩ quan khác lấy một xe Jeep chạy về Bộ Quốc phòng. Bộ đội VC đã vào đến Sài Gòn, ông hoàn toàn thất vọng định tự tử. Nguyễn Văn Cung bị VC bắt đi, ông đã nói thẳng với họ rằng: “Các ông là người thắng trận, chúng tôi là người thua trận. Các ông có chính quyền, có súng đạn trong tay, các ông đem tôi bắn bỏ, đời tôi cũng không ân hận.” Một cán binh VC đã bảo Cung: “Cách mạng không cần cái chết của anh. Cách mạng cần anh suy ngẫm về những tội ác mà anh đã phạm, làm lại cuộc đời một người dân lương thiện.” Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn, người đã trực tiếp kiểm kê 16 tấn vàng Chính quyền Việt Nam Cộng hoà để lại (mà người ta đồn “Ông Thiệu đã mang đi.”) Ông Sơn cùng nhiều người dân túa ra hai bên đường Thống Nhất “xem bộ đội”. Ông kể: “Khoảng 11g tôi nghe tiếng gầm rít của xích sắt toán xe tăng đầu tiên tiến vào trung tâm thành phố từ ngõ Thị Nghè. Tôi và một số người khác kéo nhau đến sát tường rào trường Dược để xem. Đứng cạnh tôi là anh Đại uý dù Quân lực Cộng hòa, người chỉ huy đại đội dù đóng trên tầng ba Đại học Dược. Anh còn mặc nguyên bộ áo rằn ri của lính dù, chỉ để đầu trần. Đột nhiên, chiếc xe tăng cắm cờ giải phóng đi đầu quay ngoắt lại, leo lên lề đường, tiến sát vào bờ rào. Tôi có cảm tưởng như nòng pháo đang chĩa thẳng vào mặt mình. Tôi nhìn thấy rất rõ họng súng đen ngòm với những khía hình răng cưa ở miệng súng. Một người lính trên pháo tháp đột nhiên đứng dậy, rút khẩu súng K.54 ra lên cò và chĩa thẳng vào anh Đại uý dù đang đứng sát cạnh tôi. Thời gian bỗng như đông lại trong đầu tôi. Tôi có cảm giác sẽ nghe tiếng súng nổ, và người lính dù đổ gục xuống. Nhưng một người lính khác cũng đang đứng trên pháo tháp, có lẽ là người chỉ huy, đưa bàn tay gạt khẩu K.54 xuống. Anh từ tốn hỏi người lính dù: “Đã đầu hàng rồi, sao anh còn ở đây?”. Người lính dù cũng bình tĩnh trả lời: “Chúng tôi đã tuân lệnh buông súng, tôi chỉ đứng đây xem thôi.” Người chỉ huy phất tay ra hiệu, chiếc xe tăng đột nhiên quay ngoắt ra nhanh không kém và chạy ầm ầm về phía trước, hướng về Dinh Độc Lập. Đoàn xe tăng gồm năm, sáu chiếc tiếp tục kéo theo sau, tiếng xích sắt kêu rít mặt đường nhựa. Sau một lúc tôi nghe tiếng ầm thật lớn. Tôi cứ nghĩ là tiếng đại bác nổ, sau này mới biết là tiếng xe tăng húc đổ cổng dinh.” Đó là chiếc xe tăng 390 của lữ đoàn 203, người chỉ huy hỏi viên Đại uý dù là thiếu uý Lê Văn Phượng. Người chụp được bức ảnh độc nhất vô nhị chiếc tăng 390 húc đổ cổng Dinh Độc lập là nữ nhà báo Pháp Françoise Demulder, người mẫu nghiệp dư, nhà báo cũng nghiệp dư. Bà đã bám theo Dương Văn Minh vào dinh. Khi trung tá Nguyễn Văn Binh ra đóng cổng Dinh, bà chạy ra và phục sẵn. Nửa giờ sau, xe tăng 390 lao đến húc cổng. Thế là Demulder có bức ảnh để đời. 11g25. Không xác định được giờ xe tăng húc đổ cổng Dinh Độc Lập: 12g05? 10g45? 11g10? 11g15? 12g10? 11g30?, vì không có bằng chứng xác thực để xác định là giờ nào? “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức kể chuyện treo cờ trên nóc Dinh Độc Lập, sách này chép: “Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc dây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận”. Cứ tin ông Thận có đồng hồ, trước khi ký tên vào cờ ông có nhìn đồng hồ. Căn cứ vào giờ treo cờ có thể đoán thời gian ông Thận tới Dinh Độc Lập là khoảng 11g20-11g25, cùng thời gian với xe tăng 390 húc đổ cổng Dinh. “Hồi kí không tên” của nhà báo Lý Quý Chung, người luôn bên Dương Văn Minh ở Dinh Độc Lập trưa 30.4, sách này chép: “Khoảng hơn 11g30 sáng, chiếc tăng đầu tiên loại T.54 xuất hiện ở từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo Cầm Viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu nghị sĩ ra đứng tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị đón tiếp. Chiếc tăng to lớn tiến gần, đến khoảng Nhà thờ Đức Bà thì đột ngột bắn chỉ thiên hai phát đại bác gây hoảng hốt cho tất cả mọi người đang đứng chờ ở tiền đình. Thế là tất cả lui vào phòng làm việc của ông Thiệu và lo lắng chờ. Chỉ ít phút sau, tiếng chân người vang dội trong đại sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô to từ phía đại sảnh: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!”… Người bước ra khỏi phòng trước tiên là Tổng thống Dương Văn Minh. Tiếp theo là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh, sự bình tĩnh của hai ông cũng truyền sang tôi. Tôi trao cái cặp da xách tay của tôi cho Dân biểu Thạch Phen rồi mạnh dạn bước theo. Chúng tôi vừa ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, tôi thấy có nhiều người mặc thường phục cũng có mặt lẫn với bộ đội. Tôi nhận ra một số gương mặt quen thuộc, đã từng hoạt động báo chí hoặc trong các phong trào đấu tranh học sinh sinh viên. Tôi nhớ hình như có anh Nguyễn Vạn Hồng (tức Cung Văn), Triệu Bình, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Văn Tòng, v.v. Ai đó, tôi không nhớ rõ, chạy đến ôm tôi nâng lên khỏi mặt đất và nói to trong sự mừng rỡ tột cùng: “Mình thắng rồi!”, trong lúc hai tay tôi vẫn giơ cao trong tư thế đầu hàng. Nước mắt tôi trào ra, tôi khóc…” Tin rằng đó là những giọt nước mắt thành thật của nhà báo Lý Quý Chung, sau này là Thư ký Toà soạn báo Lao Động, bút danh Chánh Trinh. 11g30. Đại uý Bùi Quang Thận là người treo cờ giải phóng lên nóc Dinh Độc Lập vào 11g30, việc này có vật chứng là chữ ký ông Thận ghi ngày giờ trên lá cờ. Nhưng ai là người đưa ông Thận lên nóc Dinh Độc Lập để treo cờ? Có năm người tự nhận chính mình. Có lẽ cả năm đều không nói dối. Trên nóc Dinh Độc Lập trưa 30.4 có nhiều cờ Giải phóng được treo lên sau lá cờ của Bùi Quang Thận. Cả năm người đưa năm bộ đội khác nhau vào năm thời điểm khác nhau lên nóc Dinh Độc Lập. Chẳng ai biết tên các bộ đội mình đã dẫn đường. Ngày hôm sau 1.5.1975 báo chí đăng tên bộ đội Bùi Quang Thận treo cờ thì cả năm người đều tin bộ đội được mình đưa đi treo cờ tên là Bùi Quang Thận. Vì thế mới có chuyện giờ treo cờ cũng khác nhau: 12g30, 11g30, 11g, 12g15. Còn việc đâm bổ vào kính tường và sợ vào cầu thang máy, thời điểm đó bộ đội nào cũng vậy cả. Vẫn “Hồi ký không tên”, nhà báo Lý Quý Chung viết: “Một người bộ đội (tôi không rõ quân hàm) nói với Tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền.” Ông Minh quay qua tôi đứng bên cạnh: “Chung, toa hướng dẫn người này lên sân thượng.” Sau này tôi mới biết đó là Đại uý Bùi Quang Thận. Nói về sự kiện 30.4 tại Dinh Độc Lập có một bài viết kể tên một ai đó đã đưa bộ đội lên hạ cờ. Tôi không biết ở Dinh Độc Lập còn có một nơi nào khác treo cờ hay không ngoài cột cờ sân thượng. Năm 1990, khi kỷ niệm 15 năm giải phóng Miền Nam, một hãng truyền hình Nhật có mời tôi và Trung tá Bùi Quang Thận cùng tái hiện lại những giây phút tôi đưa Đại uý Thận lên sân thượng Dinh Độc Lập để hạ cờ của chế độ Sài Gòn.” Câu chuyện của ông Lý Quý Chung làm tôi tin chính ông là người dẫn đường cho Đại uý Bùi Quang Thận. Dù có mấy phút gần nhau và đã 15 năm ông Thận có thể quên, nhưng khi tái hiện cùng nhau, quay đi quay lại nhiều lần, nhất định ông Thận sẽ nhớ. Nếu không phải Lý Quý Chung dẫn đường, Bùi Quang Thận sẽ lên tiếng. 11g40. Tại Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà, Trung sĩ Trần Văn Minh đã tự sát bằng súng Colt 45. Trung sĩ Huỳnh Hồng Hiệp kể: “Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống.” Trước đó 10 phút, 11g30, dưới chân tượng đài TQLC, đối diện với toà nhà Quốc hội Việt Nam Cộng hoà Trung tá cảnh sát Nguyễn Văn Long cũng tự sát bằng súng Colt 45. Trung tá Nguyễn Văn Long sinh tại Phú Hội, Huế ngày 1 tháng 6 năm 1919, 56 tuổi, là người cao tuổi nhất trong số các vị tuẫn tiết. Một danh sách 38 tướng tá tự sát trong ngày 30.4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam 11g30. Chuẩn tướng Lê Văn Hưng 20g45. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ 11g. Chuẩn tướng Trần Văn Hai 12g đêm. Thiếu tướng Phạm Văn Phú 12g trưa. Còn lại là 31 sĩ quan cấp tá, trong đó có Trung tá Nguyễn Văn Long. 12g. Ông Nguyễn Hữu Thái, người có mặt từ khi bộ đội vào Dinh Độc Lập 11g30 cho đến khi Đài phát thanh Sài Gòn thu phát xong tuyên cáo Đầu hàng vô điều kiện 13g30. Ông Thái đã kể cho con gái ông những gì xảy ra từ 12g-13g30, đăng trong sách: “30.4.75 Sự kiện & Đối thoại của một gia đình”, xin trích đoạn: “Binh lính bảo vệ Dinh Độc Lập đã bị dồn lại tập trung trên bãi cỏ trước Dinh, để tay lên đầu, không ai bị còng tay. Các chỉ huy cấp thấp Quân giải phóng cũng có người muốn trói các thành viên trong nội các Dương Văn Minh. Nhưng Chính uỷ xe tăng 203 Bùi Văn Tùng xuất hiện, ông khá hoà nhã nhưng cương quyết, chỉ mời các ông Tổng thống Dương Văn Minh, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu ra đài phát thanh nói lời đầu hàng. Chính uỷ Bùi Văn Tùng thảo ra lời đầu hàng. Tướng Minh có đề nghị chỉ nêu chức danh Đại tướng để nhân dân có cảm tình hơn, không nên dùng chữ “Tổng thống” dân không ưa. Nhưng ông Tùng không chịu, yêu cầu nêu cả chức danh tổng thống thì mới ra lệnh được cho cả quân sự và dân sự. Dù sao ông Minh cũng làm Tổng thống được ba ngày rồi. Các bên đều mệt mỏi, mất ngủ nên Tổng thống Minh đọc va vấp mấy lần. Máy Đài vẫn chạy nhưng nhân viên Đài đã biến đi đâu mất cả. Khi Chỉnh uỷ Tùng thảo lời đầu hàng cho Tướng Minh đọc, sinh viên phải chạy đi tìm kỹ thuật viên, nhà ở gần đài, đến vận hành. Nội dung phát ba phụ trách, làm luôn MC, chủ yếu phát đi các lời của Tổng thống Minh, Chính uỷ Tùng, cùng Thủ tướng Mẫu kêu gọi công nhân viên chức bàn giao cho Cách mạng và sinh hoạt bình thường.” 12g30. Kissinger đòi trả lại nửa giải Nobel Hoà Bình 1973 (nửa giải còn lại thuộc về Lê Đức Thọ nhưng ông đã không nhận từ đầu). Nhà báo Olivier Todd, tác giả cuốn “Tháng Tư nghiệt ngã”, cho hay: Cũng trong ngày 30 tháng 4 này, ông Kissinger viết thư cho bà Lionnaes, thư ký của giải Nobel về Hoà Bình. Ông mong muốn được trả lại cả giải thưởng và số tiền. Nhưng Uỷ ban ở Na Uy từ khước. Olivier Todd bình luận: “Đối với ông Kissinger, với tư cách con người, và một người của chính quyền, sự kiện Sài Gòn thất thủ đã thể hiện một sự thất bại thật to lớn, thật rõ ràng và thật nặng nề cho sự nghiệp của ông ta.” 13g. Dương Văn Minh đọc tuyên cáo “Đầu hàng vô điều kiện” cho Nguyễn Hữu Thái ghi âm, chấm dứt nhiệm kì Tổng thống ngắn nhất lịch sử thế giới, cũng có thể ngắn nhất lịch sử loài người. 13g30. Nghe tuyên cáo “Đầu hàng vô điều kiện” của Dương Văn Minh phát trên Đài Sài Gòn, nghe cả tiếng MC Nguyễn Hữu Thái, biết Nguyễn Hữu Thái đang ở Đài, Trịnh Công Sơn, Huỳnh Ngọc Chênh và một số sinh viên chạy đến Đài. Nguyễn Hữu Thái quyết định làm một chương trình phát thanh. Nguyễn Hữu Thái mở đầu: “…Cách mạng Sài Gòn, Chợ Lớn Gia Định và chúng tôi xin công bố là thành phố Sài Gòn đã được giải phóng lúc 12 giờ ngày hôm nay, 30 tháng 4 năm 1975. Chúng tôi xin đồng bào hãy bình thản và bình tĩnh tiếp tục cuộc sống bình thường. Quân đội cách mạng đã làm chủ hoàn toàn thành phố và hiện tại chúng tôi […]. Như thanh niên sinh viên học sinh Sài Gòn và toàn quốc đã biết, chúng tôi xin giới thiệu anh Sơn có thể nói vài lời và cũng là hát cho quý vị nghe một bài ngăn ngắn.” Trịnh Công Sơn phát biểu: “Tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này… Tôi xin hát một bài. Hiện tại ở trên đài thì không có đàn guitar, tôi xin hát lại cái bài “Nối vòng tay lớn”. Hôm nay, thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết. Và Trịnh Công Sơn đập nhịp hát cùng vài anh em: “Rừng núi dang tay nối lại biển xa/ Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà…” Tàu Trường Xuân là tàu ra đi cuối cùng. Khi Trịnh Công Sơn và nhóm sinh viên hát “Nối vòng tay lớn” trên Đài phát thanh Sài Gòn, con tàu trọng tải 2.500 tấn, dài 85m, rộng 12m, chở 4000 ngàn nhân mạng rời Thương cảng Sài Gòn, không ai ngăn cản. Chẳng may tàu chết máy trôi dạt ngoài khơi mấy ngày liền. Không nước không thực phẩm, bốn ngàn người đói khát phơi nắng, không ít người chết và tự tử. May có tàu hàng Đan Mạch của Thuyền trưởng Olson phát hiện và cấp cứu, đưa về Hương Cảng lúc 19g ngày 4.5.75. Tàu Trường Xuân 13g30 ngày 30.4.1975. Ảnh: Internet. 14g30. Nhiều người cứ tưởng chiến tranh đã chấm dứt lúc 13g30, giờ mà Trịnh Công Sơn trực tiếp hát “Nối vòng tay lớn” trên Đài phát thanh Sài Gòn. Nhưng không. Cuộc chiến vẫn còn ở một góc Thành phố. Ở sân bay Tân Sơn Nhất, một nhóm lính Cộng hoà với một khẩu M.60 và hơn chục khẩu AR15. Bộ đội trung đoàn 24, sư đoàn 10 ra sức dùng loa và bụm tay kêu gọi đầu hàng nhưng họ vẫn không chịu, đáp lại hàng tràng súng máy và M79. Không thể buộc nhóm lính Cộng hoà tan hàng, bộ đội điều tới một tăng T.54 với họng súng DK.100 ly trực chỉ vào ổ kháng cự nã độc một phát viên đạn xuyên (không phải đạn phá, để không tiêu diệt cả ổ). Đó mới là viên đạn cuối cùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh, cũng là viên đạn cuối cùng của chiến tranh, vừa đúng 14g30. Khoảng 10g sáng ngày 30-4-1975, bộ đội từ hướng Hóc Môn tiến vào trung tâm thành phố Sài Gòn đang đi ngang qua đường Trương Minh Giảng (Lê Văn Sỹ) quận 3. Ảnh Nguyễn Đình Đạt Bộ đội Đại đội 7, tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư 10 vừa chấm dứt cuộc chiến nói trên, đi bộ thành hàng trên vỉa hè, mặt mày ai nấy nhàu nhĩ nhem nhuốc ám khói. Họ mệt mỏi lầm lì đi. Từ quán cà phê một cô gái chạy ra chặn lấy anh bộ đội trắng trẻo đẹp trai đi cuối, chụp lấy tay anh, nói: “Cho em bắt tay chú giải phóng!”. Rồi cô le te chạy, vừa chạy vừa cười. Anh lính trẻ mỉm cười tẽn tò, nhìn theo cô gái. Đó là Trung sĩ Hoàng Ấu Phương, 20 năm sau là nhà văn Bảo Ninh, tác giả cuốn tiểu thuyết bất hủ: “Nỗi buồn chiến tranh.” Củ Chi 17.3.2023 NQL

Thứ Tư, 11 tháng 10, 2023

Israel, Palestine và Jerusalem. - Dũng Phan Câu chuyện hôm nay được viết lại từ sự kiện khi Israel – Palestine đối diện khả năng bùng nổ chiến tranh toàn diện. Bắt đầu bằng việc chính quyền Israel đuổi 6 gia đình Palestine sinh sống tại khu vực Sheikh Jarrah thuộc Đông Jerusalem, thổi bùng lên ngọn lửa giận dữ của người Palestine. Cảnh sát được gọi đến và đụng độ đẫm máu xảy ra. Hamas, tổ chức vũ trang của người Palestine ở Dải Gaza tuyên bố đứng về phía người dân Palestine bị lấy đất. Cùng thời điểm đó, hàng chục ngàn người Palestine biểu tình bên ngoài đền thờ Al-Aqsa, địa điểm linh thiêng thứ ba của người Hồi giáo. Đền thờ nằm tại khu thành cổ Jerusalem và sát với Bức tường than khóc - địa điểm linh thiêng bậc nhất với người theo Do Thái giáo. Chưa hết, hàng ngàn người Do Thái cũng đổ về khu thành cổ để kỷ niệm ngày Israel chiếm được Đông Jerusalem. Tính từ khuya (ngày 10/05/2021), đã có hơn 1.000 quả rốc két được bắn về phía Israel. Lá chắn bảo vệ Israel mang tên “vòm sắt” đã được kích hoạt với một hình ảnh đẹp kinh khủng trên bầu trời, nhưng là một hình ảnh đẹp đáng sợ của chiến tranh. Quân đội Israel cũng không để yên, đáp trả bằng hàng trăm cuộc không kích. Câu hỏi: - Tại sao lại có chuyện thù hận này? - Tại sao từ ngày chúng ta biết đọc tin tức và đọc thời sự, đã luôn nghe về việc này? - Và tại sao Jerusalem lại quan trọng đến thế? - Tại sao họ lại cùng giành nhau một địa điểm linh thiêng? “Hãy đi tìm lịch sử, bởi chỉ có lịch sử mới đi kể cho bạn về nguồn gốc của vấn đề”. // A. Tôn giáo – sự ra đời của mâu thuẫn Thiên chúa giáo, Hồi giáo, vì sao mà sinh ra? Lý do vì sao xuất hiện các cuộc thập tự chinh? Lý do vì sao Israel lại là cái gai trong mắt của cộng đồng Ả Rập. Đầu tiên là một sự thật gây bất ngờ cho tất cả: Do Thái giáo, Kito giáo (Thiên Chúa Giáo theo cách gọi của tiếng Việt) và Hồi giáo – 3 tôn giáo đang đánh nhau chí chóe ở khu vực Trung Đông ... đều có cùng chung một gốc. Đấy được gọi là các tôn giáo độc thần mà nguồn gốc chung của chúng đến từ một nhân vật sống vào đầu thiên niên kỷ 2 TCN (tức cách đây 4000 năm), gọi là Abraham. Và địa điểm mà người cha ấy sinh ra các tôn giáo đó chính chỗ bom đạn đang nổ ầm ầm: Trung Đông và Jerusalem. 3000 năm về trước, tộc người Do Thái đến định cư ở phía tây bán đảo Ả Rập. Vị vua của người Do Thái tên là vua David (người đã đánh bại tên khổng lồ Goliath) mà nhiều người vẫn dùng thành ngữ. Thủ đô và trung tâm của người Do Thái bạn có biết là tên gì không? Nó tên là … Jerusalem. Và trên quê hương với những vùng đất được định hình này, Do Thái giáo đã được sinh ra từ gốc khởi nguồn của Abraham. 1/ Do Thái giáo của người Israel đã xuất hiện từ rất lâu, và còn xuất hiện đầu tiên. 2/ Vùng đất mà họ đang sinh sống của hôm nay, là nơi mà tổ tiên họ đã ở đó từ 3000 năm trước. Nắm kỹ được 2 điều đó, chúng ta mới hiểu để đi đến phần sau của câu chuyện. Người Do Thái lập nước được một thời gian thì bị đô hộ bởi đế quốc Babylon (Iran, Iraq) ngày nay. Sau đó đến lượt đế chế La Mã thống trị họ. Đây là quốc gia mất nước hơn 1000 năm. 1000 năm sau khi bị mất nước, và dân tộc vẫn đang nằm dưới chế độ cai trị của người La Mã, thì có một người Do Thái được lịch sử giao cho vận mệnh đã xuất hiện. Người đàn ông này và sự vĩ đại của ông ta sẽ thay đổi lịch sử thế giới. Tên ông là … Jesus. Ông tiến vào thành Jerusalem trên lưng một con lừa.Vì KINH CỰU ƯỚC của người Do Thái ghi rõ “Vị vua của Israel ở tương lai sẽ tiến vào Jerusalem trên lưng một con lừa” nên người Do Thái đã vây lấy ông, nghe ông nói chuyện, đợi ngày ông giải phóng dân tộc khỏi đế chế La Mã. Nhưng không, chỉ một tuần sau, đế chế La Mã biết tin, và người đàn ông ấy đã bị đóng đinh câu rút. Một bộ phận người Do Thái tin rằng chúa Jesus đã chết. Nhưng một bộ phận khác thì không, họ tin rằng chúa sẽ phục sinh và đưa họ ra khỏi dòng khổ ải trầm luân. Bộ phận này tách thành một giáo lý riêng gọi là KINH TÂN ƯỚC, với lễ Giáng Sinh (Chúa ra đời), và Lễ phục sinh (Chúa sống lại), đấy chính là Đạo Thiên Chúa (Kito giáo) của phương Tây. Những người này vì muốn cho tất cả biết rằng Chúa đã phục sinh, nên đã đi khắp nơi để giảng đạo. Lúc này, vì đế chế đang nằm trong quyền cai trị của La Mã, ngôn ngữ chữ viết La Tinh cũng thống nhất, nên vô tình giúp cho việc giảng đạo được dễ dàng hơn nhờ vào hành chính, giao thông thuận lợi. Câu nói “Đường nào cũng về La Mã” là có ý nói về sự ưu việt về đế chế này. Đến năm 312, một sự kiện lớn xảy ra để Kito giáo trở thành tôn giáo lớn nhất đế chế. Đấy là việc Hoàng đế Constantine nhận được điềm báo Thập tự giá. Cùng thời điểm đấy, ông giành được chiến thắng Maxentius ở trận Cầu Milvian và thâu tóm quyền lực Đông và Tây. Tin rằng được phù hộ (vì nhận điềm báo thập tự giá mà) nên đến năm 313, hoàng đế ra chỉ dụ Milano cho phép người Kitô giáo được tự do hành đạo. Đến năm 380, Theodosius I chính thức công nhận Kitô giáo là quốc giáo của đế chế La Mã. À, đến đây có lẽ bạn đã biết vì sao Roma, Vatican là kinh đô Kito giáo rồi. Lưu ý có dòng chảy như sau: 3000 năm trước, Do Thái giáo ra đời. 2000 năm trước, Thiên Chúa giáo ra đời. Vậy Hồi Giáo? 1400 năm trước, đến lượt Hồi Giáo xuất hiện. Vẫn là trên bán đảo Ả Rập đầy huyền bí đó. Một chàng trai trẻ khác tên là Muhammad (Mô ha mét), đã đến và vẫn là lấy gốc từ chính Abraham để tạo nên Hồi Giáo. Các bạn chú ý, Hồi Giáo thừa nhận hết những con người như Jesus, như Moise, như Abraham. Tuy nhiên, có 1 điểm khác biệt cốt lõi, chính điểm này đã sinh ra mâu thuẫn, và gián tiếp sinh ra đau thương. Bao gồm 2 điểm chính: a/ Muhammad chỉ tự nhận mình là “Nhà tiên tri”, là sứ giả của thượng đế, là người phát ngôn của Thượng đế xuống truyền đạt đúng y lời của thượng đế. Chứ chưa bao giờ ông nói mình là “Chúa”. b/ Muhammad nói rằng KINH KORAN là quyển kinh gốc mà thượng đế ban cho, là quyển kinh “Nguyên sơ nhất”, “Trọn vẹn nhất”. Trong khi Kinh Cựu Ước của người Do Thái và Kinh Tân Ước của người Thiên Chúa đã bị bóp méo đi rồi. Người theo Do Thái đương nhiên không tin, người theo Thiên Chúa cũng chẳng tin. Nhưng người Hồi Giáo thì tin. Vậy là mâu thuẫn xảy ra khi người Hồi Giáo với niềm tin sắt đá đã xem những kẻ kia là dị giáo. Còn những người kia thì gọi bên kia là “Cực đoan”. Trong cuộc sống này, suy nghĩ “Ta là số 1, ta là đúng nhất, còn ngươi mới sai” có thể đơn giản chỉ là nghỉ chơi với nhau, thỉnh thoảng nói xấu nhau cho vui miệng (nói xấu quanh năm suốt tháng thì hơi bệnh). Nhưng với vấn đề tôn giáo, khi có sự va đụng về quyền lợi, về vùng đất, thì cái đem lại chính là máu đổ, là chiến tranh. Như đã nói ở trên, người Do Thái mới lập nước chưa được bao lâu thì bị tấn công và đô hộ (giống y như Việt Nam đấy). Các đế quốc hùng mạnh lần lượt tấn công họ và đặt họ vào trong thế vong quốc suốt 2000 năm lần lượt là đế chế Babylon, đế chế La Mã, và cuối cùng là đế chế Ottoman. Sang thế kỷ 20, đế chế Ottoman tan rã thì người Do Thái lại đối mặt với họa diệt chủng từ phía Phát Xít Đức. Nhưng 2000 năm đau thương và bơ vơ đó, người Do Thái chưa bao giờ ngừng phản kháng, chưa bao giờ chịu đầu hàng, và chưa bao giờ quên đi tổ tiên của mình. Đế chế La Mã vì quá bực mình trước cái chuyện người Israel luôn phản kháng. Họ đã làm một việc mang tính đồng hóa, đấy là sau khi đập Israel một quả nổ đom đóm mắt. Người La Mã đã nhét tất cả 3 tôn giáo tôi kể trên kia vào một vùng đất, với mục đích triệt tiêu sự tồn tại của người Do Thái, một vùng Ả Rập rộng lớn được hình thành, và tên của vùng đất hỗn tạp đó là … Palestine ! B. Đế chế Ottoman. Palestine nằm trong lòng đế chế Ottoman. Đấy không đơn thuần là Thổ Nhĩ Kỳ, nước Thổ chỉ là cái gốc sơ khởi để Ottoman đi ra thế giới. Những vị vua giỏi nhất lên nắm quyền tại Thổ Nhĩ Kỳ và bắt đầu con đường chinh phục của họ, chẳng hạn vua Selim I, người đánh bại Ba Tư, tiêu diệt Ai Cập và đến đại đế Suleiman lấy luôn cả Trung Đông sát nhập vào Ottoman. Người Thổ Nhĩ Kỳ hôm nay vẫn nói về Ottoman như người Mông Cổ nói về thời đại Thành Cát Tư Hãn. Và đế chế đó … theo HỒI GIÁO. Đấy là một trong những đế quốc rộng lớn nhất lịch sử nhân loại, đã từng “phủ” lên cả ba châu lục Á, Âu, Phi, với đội quân khát máu nhất cùng một đế chế thịnh vượng. Có nghĩa, đã có giai đoạn mà Hồi giáo đè bẹp cả Châu Âu. Trong lòng đế quốc Ottoman thời kỳ thịnh trị nhất, đế chế này đã bao gồm cả Hy Lạp, Bulgaria, Romania, Nam Tư (rồi lại tan rã làm 5 nước độc lập khác chẳng hạn Croatia, Serbia…), Hungary, Albania, Syria, Liban, Jordan, Israel, Kuwait, Ai Cập, Sudan, Libya, Iraq, Yemen, Tunisia, Algérie, Síp, Armenia, Gruzia, Ukraina và một phần nước Nga. Tức là có tới 30 quốc gia hiện nay đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của Đế quốc Ottoman. Bạn có thể nhận ra những cái tên quen thuộc của mùa xuân Ả Rập ở trong ấy: Tunisia, Algeria, Ai Cập, Yemen, Syria, Iraq, Libya. Thiên Chúa Giáo ở Châu Âu lại bị đế chế Ottoman đe dọa. Nhưng trước khi Ottoman ra đời và làm nên kỳ công trên, thì giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo, giữa người Ả Rập và người Châu Âu đã tồn tại mâu thuẫn không thể hàn gắn. Tất cả liên quan đến một vùng đất thánh tên gọi là Jerusalem. Ở phần A của bài viết này. Các bạn đều biết sự ra đời của 3 tôn giáo đều ở vùng đất Ả Rập, và 3 người truyền bá. Trêu ngươi thay cả 3 đều xem Jerusalem là vùng đất thánh minh của mình. Vua David chọn Jerusalem là kinh đô, chúa Jesus xuất hiện ở Jerusalem, và nhà tiên tri Muhammad đã bay lên thiên đường từ …Thánh Đường Đá ở Jerusalem. Vậy là Jerusalem trở thành điểm hành hương, và cũng điểm tranh giành của 3 tôn giáo, đồng nghĩa là điểm tranh giành của cả thiên hạ. Bây giờ có lẽ bạn đã hiểu vì sao Trung Đông lại nóng đến như thế rồi? Vì sao sự kiện chính quyền Israel đuổi 6 gia đình Palestine sinh sống tại khu vực Sheikh Jarrah thuộc Đông Jerusalem cách đây một tuần lại có thể xảy ra chiến tranh. Những giáo hoàng Châu Âu, nơi truyền bá Thiên Chúa Giáo, cũng có niềm tin về chúa Giêsu, và vì muốn bảo vệ cũng như tranh giành Jerusalem, họ đã phát động một cuộc chiến tranh kéo dài từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 13. Tên của cuộc chiến đó có lẽ các bạn đã đoán ra: THẬP TỰ CHINH. Đấy là một cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Kitô giáo và Hồi Giáo trên ngọn cờ hiệu “Giải phóng vùng Đất Thánh và vùng đất thiêng Jerusalem khỏi người Hồi giáo, giải phóng những tín đồ Công giáo khỏi sự thống trị của Hồi giáo." Đoàn quân “Thập tự chinh” đầu tiên đánh vào Jerusalem và tàn sát quân hồi giáo chính là…PHÁP. Và Pháp chính là quốc gia chủ đạo với những “hiệp sĩ dòng Đền” trong các cuộc tấn công vào Ả Rập 8 lần tiếp theo, trong các cuộc chinh chiến này thì Anh, Bồ đều tham gia, và cả gì bạn biết không: thập tự quân Bắc Âu. Thế đấy, cho nên màn báo thù mà các bạn thấy được hồi mấy năm trước mà facebook loạn lên dòng chữ “Pray for Paris” ở Paris hay ở Đan Mạch, Na Uy đều có ý nghĩa lịch sử cả. Những vụ khủng bố tại Pháp và Châu Âu hôm nay không phải là “trên trời rơi xuống”, cũng không phải vì IS hay những cuộc tấn công của Pháp tại Syria hay Lybia, đó là những mâu thuẫn có từ rất lâu rồi. Cuộc thập tư chinh, Châu Âu giành được những thắng lợi bước đầu trước khi bị quân Ottoman đánh bại. Cuộc thập tự chinh lần cuối kết thúc vào năm 1272. Đến năm 1517, đế quốc Ottoman thâu tóm cả Trung Đông, Ả Rập, 20 năm tiếp theo, họ lấy luôn Hy Lạp và Hungary. Cả Châu Âu bị Ottoman đe dọa. Ottoman chính là đế quốc đường đường chính chính nhất thế giới Hồi Giáo thách thức thế lực phương tây và thậm chí còn đe dọa nuốt luôn họ. Châu Âu luôn phải lập nên các liên minh thần thánh để bảo vệ thế giới Kitô giáo trước các cuộc xâm lăng nay. Israel lúc này ở đâu? Đang bị đè bẹp trong cái vùng đất Palestine (giờ do Ottoman cai trị), và vẫn hành hương đi khắp nơi, không quên nhắc nhau về nguồn gốc và tôn giáo Do Thái của mình. Thế rồi, vào cuối thế kỉ 19, một phóng viên, nhà văn tên là Theodor Herzl đã quyết định vươn cao hơn tất cả. Bằng ngòi bút của mình, ông kích thích dân tộc, ông gợi lại lịch sử, ông nhắc nhở cho người Do Thái biết mình ở đâu, mình đến từ nơi nào. Ông gọi lại cái tên “Miền đất hứa”, để những người dân Do Thái trở về Palestine để phục hưng lại vương quốc. Theodor Herzl xuất bản cuốn sách “Nhà nước Do Thái” vào năm 1896 và lý luận rằng Vấn đề của người Do Thái chỉ có thể được giải quyết bằng cách thiết lập một nhà nước Do Thái ở Palestine. Những người Do Thái tha hương bắt đầu trở về Palestine, nơi có Jerusalem 3000 năm trước chính là thủ đô của nước Do Thái do vua David đứng đầu. Họ đợi đến ngày “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” sẽ trả lại cho họ vùng đất của 3000 năm trước. Những ước vọng này đã được thổi bùng lên bắt đầu từ một nhà báo viết lịch sử dân tộc. Lúc này, Ottoman theo thời gian đã suy yếu dần, các lãnh thổ dần dần bị mất, nhiều nơi vùng lên đòi quyền tự trị để thành quốc gia tách biệt với Ottoman. Điều gì đến cũng đã đến, năm 1914-1918 khi chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra. Đế chế Ottoman đã yếu còn chọn sai phe. Họ chọn Đức-Áo-Hung. Kết quả các cường quốc đồng minh Anh – Pháp - Nga đã giành thắng lợi. Khi thế chiến 1 kết thúc, Ottoman trong vai trò kẻ thua cuộc nên bị những người Châu Âu đập cho tan rã lãnh thổ to lớn của Ottoman – một đế chế đã đe dọa Châu Âu suốt 7 thế kỷ. Trước đó (vào năm 1916), đế quốc này cũng bị xé lẻ ra ra bằng thỏa thuận Sykes-Picot với việc Pháp có vùng phía bắc của Ottoman ( bao gồm Syria, với sau này là Liban), Anh có vùng phía Nam của Ottoman (Jordan, Iraq và sau này, Palestine). Khi Thổ Nhĩ Kỳ cũng tuyên bố độc lập, Ottoman chính thức sụp đổ. Nhưng Phương Tây luôn mang một tiềm thức sợ hãi đế chế Ottoman, đế chế đe dọa sự tồn vong của phương Tây và từng bao vây Viên, xâm lược Hungary, lấy Hy Lạp, … sẽ một ngày trở lại. Và các cuộc thập tư chinh mâu thuẫn tôn giáo luôn là thứ im sẵn trong lòng của phương Tây. “Chúa của mình mới là ưu việt nhất, còn Hồi giáo là không”. Bởi vì “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.” Người Anh và Pháp quyết định phân chia lại biên giới của một loạt các quốc gia như Tunisia, Ai Cập, Yemen, Syria, Iraq, Libya …. Vâng, thưa các bạn, tất cả các quốc gia này (bao gồm cả Syria đang bắn phá ầm ầm), đã được sinh ra bằng một cuộc họp và một tấm bản đồ trải ra đó. Hồi Giáo đã thua cuộc chính ở đây. Bây giờ xin nói tiếp về sự ra đời Israel. Lý do vì sao họ bị căm ghét. Bên cạnh sự phân chia đất đai cho những quốc gia hồi giáo, thì Israel chính thức được đền bù sau 3000 năm đau khổ. Câu chuyện diễn ra sau thế chiến II, khi những đau thương mà Israel phải chịu đựng dưới thời Đức Quốc Xã, khi những người Do Thái ưu tú nhất đã vận động hành lang, khi những người Do Thái giàu có nhất đang tích cực mua bất động sản ở Palestine. Tất cả đã khiến cho Anh,Pháp và Mỹ phải đền bù cho Israel. Thế là, một quốc gia đã trở lại sau 3000 năm. Với 33 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu trắng, đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã chia phía Đông Palestine thành hai nhà nước: một phần đất là của người Palestine theo đạo Hồi, phần còn lại là người Palestine theo đạo Do Thái (tức nước Israel) còn Jerusalem thành đặc khu được LHQ bảo vệ. Đấy là câu chuyện về một mảnh đất 3000 năm trước thuộc về anh A, 300 năm trước thuộc về anh B, rồi giờ anh A trở lại và chia đất, chia biên giới lãnh thổ với anh B. Tuy nhiên, khác với việc vẽ ra bản đồ cho những Jordan hay Ai Cập, Syria (đều cùng theo đạo Hồi). Palestine lúc này có 1 điểm khác: sự va chạm giữa 2 tôn giáo: Do Thái và Hồi Giáo. Bị ảnh hưởng bởi phong trào chủ nghĩa dân tộc, của tôn giáo mình thờ phụng, những người Ả Rập (tức anh B ) không để yên việc này, họ ngăn chặn việc thành lập quốc gia cho người Do Thái ở Palestine. Đấy chính là khởi nguồn của Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948. Liên quân Ả Rập bao gồm Ai Cập, Syria, Jordan, Liban, Iraq, Ả Rập Saudi, Yemen và Palestine đã sát cánh cùng nhau quyết tâm đập chết quốc gia Israel. Kết quả không ngờ được đã xảy ra, Israel mới thành lập nước đã đập tan tác cả 5, 6 quốc gia kia. Người Do Thái gọi cuộc chiến tranh này là “Giải phóng dân tộc”, còn người Palestine hồi giáo gọi đó là “Thảm họa.” Đây là cuộc xung đột từ tôn giáo đến lãnh thổ, từ lịch sử đến biên giới. Đến năm 1967, có một cuộc chiến tranh gọi là “Chiến tranh 6 ngày”, Israel thêm một lần nữa chiến thắng. Nhưng lần này khủng khiếp hơn, họ chiếm luôn Jerusalem, khiến cho các nước Ả Rập phải cầu hòa. Hồi năm 2017 có một sự kiện khá thú vị, đấy là anh Donald Trump không sợ trời, không sợ đất đã tuyên bố chính thức công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và sẽ chuyển Đại sứ quán Mỹ về thành phố này một khi công tác chuẩn bị hoàn tất. Khiến cho các quốc gia hồi giáo phản ứng mãnh liệt. Israel đã được đứng vững, và người phóng viên Theodor Herzl năm nào đã ngậm cười nơi chín suối. Để tôn vinh ông, người bằng ngòi bút đã thay đổi cả số phận dân tộc. Tuyên ngôn độc lập của Israel khi được đọc lên, thì cái tên Theodor Herzl đã được gọi là người cha tinh thần của đất nước. Người Israel đặt ra 1 ngày gọi là Ngày Herzl, là ngày lễ quốc gia hàng năm. Israel, một quốc gia có lịch sử đau thương và đẫm máu (mất nước 3000 năm và đối mặt với họa diệt chủng), người dân nam cũng như nữ luôn sống trong tư thế của những con người cầm chắc tay súng để bảo vệ vùng đất của tổ tiên mà họ chỉ có lại được sau thế chiến II, và luôn ám ảnh cảnh bị mất nước và xóa tên trên bản đồ thế giới. 60 năm qua, đây là đất nước luôn bị những đất nước vây xung quanh đòi đầu. Và để chống lại điều này, Israel cũng không nhượng bộ, không thỏa hiệp, tiếng súng vì vậy không bao giờ ngưng ở Jerusalem. Không có quốc gia nào, mà cơ quan tình báo (Mossad), lại được xem như là văn hóa, là thần tượng của người dân, là cột chống bão giông, và là điểm tựa bảo vệ cuối cùng cho quốc gia mỗi ngày như Mossad của Israel. Mâu thuẫn giữa Trung Đông Hồi Giáo, Israel Do Thái giáo và Phương Tây Thiên Chúa Giáo là một mâu thuẫn tính bằng thiên niên kỷ. Vì sao Trung Đông luôn là cái lò lửa, là lâu lâu xuất hiện trên báo chí và bản tin thời sự về những màn báo thù và tiếng súng nổ. Vì xung đột Palestine-Israel là xung đột tính bằng thiên niên kỷ và bao trùm mọi mặt của đời sống. Trong cuộc chiến này vì vậy không có xấu có tốt, không có đúng có sai, tất cả những người trong cuộc đều giữ một niềm tin bất diệt về dân tộc của họ. Đúng hay sai phụ thuộc vào lăng kính bên này hay bên kia. Còn tôi, tôi chỉ là người kể lại lịch sử, để bạn biết về căn nguyên vấn đề vì sao có súng nổ, chứ không phải để phán xét.

Thứ Ba, 8 tháng 8, 2023

TRI TÔN, SWATON, TZAITÓN (Lưu Nhơn Nghĩa - 2006) Hồi xưa, theo thầy Xét, giáo viên trường Việt Miên Tri Tôn, nói chữ Swaton, nghiã là khỉ đu, có người nói là khỉ kéo. Ngày xưa, chừng 100 năm trước, khỉ nhiều, dám ra kéo người. Chữ Swaton phải có trước, vì xứ nầy thuộc Miên lâu đời. Dân Miên ở dọc theo chân núi. Từ chữ Swaton, dân Triều Châu đọc thành âm Tzai tón, âm Hán Việt của Tzaitón là Tri Tôn. Thứ tự nầy xem hợp lý. Dân Miên ở Sóc quanh núi, chỉ có các gia đình công chức, lai Tàu mới ở gần chợ. Quanh chợ người Tàu mở tiệm buôn. Dân Việt sống theo kinh làm ruộng. Ba nhóm nầy gặp nhau tại chợ, buôn bán trao đổi, buổi trưa, ai về với Cộng đồng mình, như nước với dầu khó pha trộn. Dân Tàu có thể hoà đồng với dân Bòn ca, buôn bán, tin nhau, lại có thể sống như dân Việt vì cùng văn hoá, phong tục. Sau 1960, mới thấy Việt hoá nhiều, qua đường học vấn, ai cũng phải học tiếng Việt, trường Việt, nếu không muốn thiệt thòi. Dân Việt và Miên khó hoà đồng vì lý do địa lý, một bên ở trong Sóc gần núi, chiều về, quay quần trong Sóc, ra chợ xa làm gì. Dân Việt ở ruộng, không lẽ vô núi thăm ai ở đó. Dân Tàu quanh chợ đa số gốc Triều Châu, có vài gười Hẹ (Khách nán), Phước Kiến, hình như không có người Quảng Đông. Họ từ bên Tàu qua, thế hệ đầu, hoặc thế hệ thứ ba, bốn, tên còn âm Tàu, Nghỉ ( Nghiã ), Khén ( Cường ). Củ tư tôi tên Dù Ỵ (Như Ý + ngọc Như Ý), ăn Tết ai cũng thích ổng ghé nhà lấy hên. Lúc học trường Việt, đọc sử, thấy tướng Trần Bình Trọng anh hùng, ổng đổi tên luôn. Người trước tôi một thế hệ, tên đều đọc theo âm Tàu, Kia Mẫu, Lào Tia, Tà Dú. Danh xưng gia đình kêu theo Tàu, hia, xố (chị dâu), củ, kiểm, ý, tiả … Chợ có 3 tiệm cà phê hủ tiếu lớn. Tiệm ở chợ của chệt Can, bán đắc buổi sáng, vì ngay địa thế đầu chợ, góc đường. Tiệm chệt Xên Kim ngả tư đường ra Châu Đốc, đắc nhứt dân Sóc ra và ngay bến xe. Tiệm Nam Châu là căn phố lọt trong nên bất lợi. Chiều chiều, dân Tàu thỉnh thoảng tụ tập tiệm cà phê bàn chuyện thời sự, uống ly cà phê đen, mấy bình trà theo sau miễn phí. Thường bàn chuyện làm ăn, về Chợ Lớn, chuyện bên Tàu cho người chưa về Tàu lần nào nghe, mấy ai biết chữ Tàu. Năm đó, báo Tàu Chợ Lớn có đăng trận đánh ở Cà Mau, quận Đầm Dơi. Đọc chữ "bian fú" (biên bức), mấy ông ngồi cả buổi tối quanh bàn, tốn bao nhiêu bình trà, chệt Xên Kim sốt ruột, biết là loài thuộc bộ trùng, mà không biết tiếng Việt là con gì. Củ Khai Phến, có học trường Tàu Bạc Liêu, lại ở gần Cà Mau, nói đúng là con dơi, hay quá. Từ đó có uy tín, dù củ chỉ đủ khả năng ra toa thôi. Có lần, củ viết chữ Thiền, bộ "y", thay vì bộ "kỳ" vài người biết chuyện, nói móc, "Chùa thiếu áo, lạnh quá, được củ Phến cho cái áo mặc cho ấm, có phước". Mạnh ai nói thổ ngữ mình, có ông thầy Tàu, ít nói, không chơi với ai, ý như ông là dân có học, biết "Kọc Ngứ" (Quốc ngữ = tiếng phổ thông = mandarin), nhưng ông không làm thầy, chỉ lo bán lá lợp nhà. Hầu hết nói thì nhiều, đọc viết được thì ít. Xứ dựa vách núi, thời trước, di chuyển đến vùng nầy rất khó khăn. Mãi tới ngày gần đây, nhiều người chưa ra tới Châu Đốc, tỉnh gần nhứt. Dân Việt Miên Tàu có bao nhiêu chữ xài bấy nhiêu , đủ rồi. Lâu lâu, có gánh Sơn Đông, hát bội cải lương tới hát, khi dọn đi, để lại vài từ ngữ hay hay, bà con Việt Tàu (trừ Miên) mang ra áp dụng triệt để. Gánh Nam Hồng hay Công Lập để lại chữ "dĩ vãng" hay quá. Cái gì cũng "dỉ dảng", bán lổ lả cũng "dỉ dảng". Già Lưu minh Đơ, hiền lắm, vợ đưa tiền đóng hụi, ghé đá gà, thua sạch, tối mới vác mặt về. Vợ hỏi, giả trả lời, "lở vô trường gà, dỉ dảng rồi", vợ nổi cơn làm dữ quá, giả bỏ đi vừa khóc "tao đi tự vận dỉ dảng cho mầy coi". Khuya chờ không thấy giả về, nhà tốc đi tìm, sợ giả cuồng trí "dỉ dảng" thiệt, thấy giả đang ngồi sau lò heo, bẻ mía nhai rào rạo. Chữ "hoàn cảnh" cũng hay tuyệt. Xừ Châu, làm tà lọt trong Văn phòng Xã, mua khoanh dây chì, tôi vác hai khoanh dây chì đi theo, nghe nó nói trầm trầm, "Nghỉ à, tao không học cao như mầy, vì hoàn cảnh, mấy thấy hôn? , hồi nhỏ hoàn cảnh cha mẹ tao nghèo, không có hoàn cảnh học. Mầy có hoàn cảnh cha mẹ có tiền" … Tôi vác một khoanh dây chì trên vai, nặng, xách thêm khoanh khác cũng nặng, tớí chổ muốn hụt hơi. Hoàn cảnh mà, biết sao, Châu ơi. Sao mầy không thông cảm xách tiếp cho tao một khoanh ? Từ củ Khai Phến, ra chữ "màu thénh" (mâu thuẫn, hình như củ có kể chuyện cái mâu và cái thuẩn trong chuyện cổ Tàu). Ông già tôi thấm ý, vừa về gặp thằng em tôi trốn học, ông ứng dụng ngay. "Cái thằng mâu thuẫn mà, có tiền lo cho nó học, không lo học, mâu thuẫn hết sức. Lần sau, thằng em khác chạy Honda té bể gối, ông ngồi trên chỏng, "đã dặn chạy chậm mà không chịu chạy chậm, mâu thuẫn quá trời, con cái bây giờ toàn là quân mâu thuẫn" . Chữ "thông cảm" thông dụng trong giới xe đò. Đậu chờ khách cho đã, mở máy bóp kèn, "lên xe đi, chạy rồi cô bác ơi ", rồi tắt máy đậu chờ, ai than phiền thì "Thông cảm mà cô bác ơi, bửa nay đói quá, thông cảm, cho thêm 5 đồng tiền cái thúng bưởi, nặng quá, thông cảm chị ba ơi". Gặp Cảnh sát, "thông cảm mà xếp ơi", cộng với cái bắt tay kẹp vài chục cho thông cảm. Lưu Nhơn Nghĩa (2006) Hình ảnh từ Internet.