Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

MÙA QUẬY ĐÌA

Lương Thư Trung
Mùa xúc lùm, nhảy hùm, quậy đìa


Đời sông nơi đồng quê vốn dĩ là một đời sống tự lực cánh sinh, nên người dân nơi  ruộng đồng tìm cách này hay cách khác bắt cá tép cho mâm cơm gia đình thêm chút thức ăn là một lẽ vô cùng tự nhiên và giản dị.

Vào tháng tư trời hơi mưa lai rai, nước trên các kinh rạch còn theo mực nước thủy triều lên và xuống mà dòng nước khi lớn khi ròng. Đến gần cuối tháng tư, bước qua đầu tháng năm âm lịch màu nước hơi đục và giữa tháng năm, các con rạch nước ương ráo trọi. Vào thời điểm này, các bãi bùn không còn phơi mình dưới ánh nắng như những ngày hè, và cặp mé kinh, những bờ cỏ dường như mừng nước ương, chúng lại bỏ ngọn bò dài ra thêm. Và cá tép cũng có dịp sanh sôi  thêm và thường lội lòng vòng  kiếm ăn nơi các về cỏ. Biết được đường đi nước bước các loài cá tép vào mùa này như vậy, nên dân ruộng mới bày ra cách buộc lùm là chuối khô xúc cá tép.

Nơi thôn quê vào những năm thập niên 1940, 1950, 1960, dân cư còn thưa thớt, nơi làng quê nhà nào cũng có vườn chuối nên lá chuối khô do vậy mà nhiều vô số kể. Có người cắt lá chuối khô làm ổ cho heo ngủ đừng bị mũi cắn, nhưng vào những ngày tháng năm, người ta cắt lá chuối khô buộc lại làm lùm treo dọc theo hai bên mé kinh, mé rạch, trong các mương vườn, hoặc nơi búng đập để dụ cá tép vào trú ngụ cho những ngày mùa xúc lùm bắt cá, bắt lươn. Muốn giữ cho cái lùm không bị trôi, thường thường người ta buộc nó vào những nhánh tre gai hay tre mỡ róc sạch lá và cắm xuống bùn. Từ lùm này cách lùm kia khoảng từ năm tới mười thước. Vì nếu buộc hai cái lùm mà gần quá thì khi xúc lùm này nước chao động dễ làm cho cá tép trong lùm bên cạnh giựt mình và vội vàng lội tránh ra ngoài. Còn buộc lùm này cách lùm kia xa quá thì lại hao đất đường dài, nên buộc chẳng được bao nhiêu lùm.

Hồi những năm xa xưa ấy, mỗi người xúc lùm có thể có cả trăm lùm. Người nào hơi hổng siêng thì ít nhứt họ cũng có năm ba chục lùm là thường. Vì thuở ấy cá tép nhiều, kinh rạch nào cũng đầy cá, nên với năm ba chục cái lùm như vậy và ngày nào cũng xúc lùm, thì coi như trong nhà không cần phải mua cá tép thêm làm gì. Còn người có cả trăm lùm, không phải ngày nào họ cũng xúc cho đủ cả trăm lùm như vậy. Người ta chia ra, ngày này xúc ba bốn chục lùm, ngày mai xúc ba bốn chục lùm kế, rồi ngày mốt xúc ba bốn chục lùm còn lại; rồi cứ trở lại mấy chục lùm lúc đầu và cứ xoay vòng hoài như vậy mà cá tép lại có như cũ.

Ngoài những lùm lá chuối, muốn bắt được cá lớn như cá lóc, cá trê, cá chạch, lươn người ta đương một cái rỗ xúc miệng tròn, vành rỗ được nức bằng cật tre già cho miệng rỗ cứng chắc, với đường kính cỡ một thước, miễn sao khi mình xúc thì cái lùm phải nằm gọn trong rỗ; và  đáy rỗ sâu cỡ năm sáu tấc là vừa vì cá dù lớn khi lọt vô rỗ sâu như vậy khó nhảy vọt ra được, ngoài ra, lổ rỗ bằng đầu đũa ăn để cá tép nhỏ không bị lọt.

Người ta thường xúc lùm vào lúc nước dưới rạch vừa đứng ròng. Sở dĩ chọn nước đứng ròng là vì cá tép có thói quen đi kiếm ăn lúc nước lớn, nhưng khi nước ròng là chúng lội về cái lùm quen của nó để nghĩ mệt. Do vậy, không ai xúc lùm vào lúc nước đang lớn.
Khi đi xúc lùm, người ta đem theo cái nồi đất, loại nồi nấu cơm, miệng tròn, đáy nồi sâu để đựng cá . Cái nồi được buộc ngang lưng quần bằng cọng dây chuối hay dây bố gì cũng được, miễn sao mình lội tới đâu cái nồi trôi theo mình tới đó nhằm khỏi phải lội tới lội lui khi bỏ cá tép vào cái nồi. Ngày xưa, khi còn nấu cơm bằng nồi đồng, người ta cũng thích dùng nồi đồng đưng cá vì nồi đồng miệng nhỏ, đáy nồi sâu nên cá khó nhảy ra ngoài. Sau này, khi dân quê có nồi nhôm, nồi gang, người ta cũng dùng các loại nồi này trong việc đựng cá tép khi xúc lùm.

Về cách xúc lùm, thật ra chẳng có gì khó hay mới lạ trong công việc quá 1à đơn giản này. Dân thiện nghệ thường họ bước chưn xuống nước rất nhẹ và họ đi dưới nước chầm chậm tránh cho nước ít chao động. Hai tay họ cầm chắc vành rỗ và đẩy nhẹ cái rỗ xúc gần cái lùm và họ lẹ làng nâng rỗ xúc lên khi cái lùm nằm gọn trong cái rỗ. Tiếp theo, họ lui gần bờ và giũ lùm lá chuối cho cá tép rớt ra rỗ. Sau đó họ bỏ nhẹ cái lùm trở lại vị trí cũ. Khi giũ cái lùm, nếu có cá chạch, lươn hoặc có cá lớn là chúng chạy rần rần chung quanh thành rỗ và người ta nâng rỗ cao lên cho cá khỏi nhảy.

Khi bỏ cá tép vô nồi, bạn nhớ hái lá môn nước hoặc đọt tàu lá chuối tươi đậy lên miệng nồi cho cá đừng nhảy hoặc bạn ngắt mấy đọt cỏ mồm bỏ phủ lên trên miệng nồi cũng được, miễn sao làm cho cá tép không nhảy ra ngoài là được rồi. Xúc lùm này xong, lại tiếp tục xúc lùm kế tiếp, cho tới khi nào bạn xúc hết lùm thì thôi, nếu bạn có khoảng ba ốn chục lùm; trường hợp nhiều lùm như trên tôi có ghi lại là bạn chừa các lùm còn lại cho hôm sau xúc tiếp .

Xúc lùm, cái chính là di chuyển cái rỗ xúc vừa êm mà nhanh, còn nhảy hùm mà tôi sắp kể, người  nhà quê họ làm những động tác trái ngược với xúc lùm. Vì nhảy hùm vào mùa nước đổ này, người ta không phải buộc lùm hay nhữ mồi cho cá tép gì hết mà chỉ có cái rỗ xúc là đủ. Và cứ thế, người ta đi dọc theo các bờ kinh rạch rồi quan sát xem chỗ nào ít cỏ, bờ kinh hơi lài lài, đừng hẩm sâu quá và nhứt là mực nước ngang lưng quần là tốt, nếu có sâu thì ngang ngực là tối đa. Vì nếu sâu quá nó làm cho mình đứng không vững, mà đứng không vững thì khó mà nhảy hùm cho nước dội mạnh và cái rỗ xúc mình cầm cũng không đủ vững để mà xúc cá cho lẹ.

Sau khi chọn địa điễm xong là người nhảy hùm để cái nồi đựng cá trên bờ, lựa chỗ cho bằng phẳng để cái nồi cá tép không bị lật đổ. Rồi họ từ từ bước xuống nước, lựa thế đứng cho vững vàng và hai tay cầm vành rỗ cho chăc chắn, rồi bắt đấu đưa cái rỗ xúc lên cao ngang  đầu và đẩy mạnh cái rỗ xuống nước cho nước văng tung tóe như mình tắm sông  quơ hai tay đập nước vậy. Tùy theo sức hai tay mạnh hay yếu, người ta nâng cái rỗ lên và xuống như vậy năm mười lần,  có khi mười lăm hai chục lần và khi gần mỏi tay, họ mới lẹ làng đưa cái rỗ ra xa trước mặt và xúc nhanh vô bụng một rỗ nước đầy , rồi nâng lên mặt nước ngay lập tức. Cá tép vậy mà không chịu lội tránh chỗ khác, chúng lại mắc kẹt trong rỗ cũng bộn. Có khi được năm mười con tép rong, tép đất, tép bạc, năm ba con cá chốt giấy, cá chốt sọc, cá chốt chuột. Nhiều khi cũng có cá linh già sắp lên ruộng cũng dính vô rỗ; rồi nào là cá chạch, cá rầm, cá vảnh, cá mè vinh lớn bề ngang cỡ ba bốn phân.

Không biết tại sao khi mình quậy đùng đùng như vậy mà  cá tép vẫn bu lại, không chịu lội chỗ khác. Dân quê giải thích ngày xưa cá tép nhiều, mỗi khi mình lội xuống kinh rạch là y như rằng cá tép bu lại rỉa vào da thịt mình. Bạn nào có ở nhà quê, có lội tắm dưới sông rạch thì sẽ biết cá nó rỉa mình đến mực nào. Nhứt là cá linh, cá lòng tong, cá chốt và ác hơn nữa là thứ cá nóc nó cắn ngón chưn mình khuyết một lỗ tròn ,chảy máu ròng ròng. Do vậy, mà vào những năm xa xưa ấy, người ta nhảy hùm là có ý dụ cá bu lại rỉa mình rồi mình dùng rỗ xúc mà xúc nó.

Một buổi nhảy hùm, tùy theo cá nhiều cá ít, tùy theo các địa điểm còn mới chưa ai nhảy qua rồi, mỗi buổi như vậy nếu mình có sức nhảy vài chục nền, cá tép có khi được khá bộn. Hồi nhỏ, chỗ tôi biết, mỗi nền như vậy ít khi nào mà người ta xách rỗ không đi lên bờ vì thế nào cũng được năm ba con cá tép là thường.

Nhưng có lẽ, cái thú quậy đìa cho nước đục để cá nổi râu mà bắt cá là ham nhứt. Vào những tháng mưa này, những đìa cạn tháng hai, tháng ba có nước mưa trở lại và là những căn nhà cũ một thời để đợi chờ các anh chị cá tép một thời sống những nơi này, rồi ra sông rạch và nay được dịp quay lại những đìa bàu. Bởi cá nhớ đồng, ếch nhớ hang và con người nhớ chốn cố hương, nên nơi miền quê sông rạch, nơi nào cá trê năm trước quậy hang làm ổ đẻ con, thì y như rằng năm sau cũng cái hang ấy cá trê lại trở về quậy hang làm ổ. Do vậy cá năm trước ở đìa, lung nào là năm sau, phần đông chúng thường trở lại những đìa, lung năm cũ, chỉ trừ một vài trường hợp “lạc đường”.

Sở dĩ người nhà quê biết được đặc tính cá về đồng cũ này là do sống ở ruộng từ nhỏ rồi giăng lưới, giăng câu, tát đìa, bắt lóng mà người ta nhận ra như vậy. Chẳng hạn vạt lung nào nhiều cá mè vinh hay cá vảnh, thì năm nào vạt lung đó cũng nhiều cá vảnh, cá mè vinh. Còn cánh đồng nào giăng câu nhiều cá trê vàng, hoặc cá trèn, cá kết, thì năm sau vào mùa giăng câu, giăng lưới, khi mình trở lại cánh đồng đó mà bủa lưới, bủa câu thì sẽ bắt được rặt những màu cá như vậy.

Một đặc tính nữa  của loài cá là cá quen gốc, bò quen chuồng, chim quen cành. Những gốc cây nào năm trước người ta thường cất tum ngồi rình cá bông, thì năm sau y như rằng cá bông ưa dựa vào những gốc cây cũ ấy và ít ai chịu dời cái tum sang địa điểm khác. Cá sông cũng vậy, dưới chưn cầu Nguyễn Trung Trực ở của Lò Thiêu (Long Xuyên) là nơi cá lăng ưa dựa. Chúng ở quen đến độ ngày xưa, khoảng năm 1956, 1957, tôi đi theo một người quen mà tôi ở trọ nhà đặng đi học, một hôm câu cá lăng bằng mồi thuốc dưới dạ cầu này, chỉ dính cá lăng toàn là cá lăng thôi,  đôi khi có vài con cá khác như cá chạch lấu, cá ba sa, cá vồ đém nhưng cá lăng vẫn là loại cá chính nơi những trụ cầu này..

Biết được cá về đìa sau cơn mưa và sông rạch những ngày nước ương, nên cư dân miền quê thường rủ nhau đi quậy đìa vào những ngày mùa nầy.  Vào mùa này, đa phần nước dưới đìa thì trong vắt vì đìa nào cũng là chỗ trũng chứa nước phèn trên ruộng rỏ xuống. Nhưng khi có mưa mang theo bùn của đất cày, một vài đìa có nước đục. Do vậy cái quan trọng đầu tiên là người ta chọn đìa nào để bằt đầu xuống quậy. Vì đìa nào cũng nước là nước, nếu không chọn kỹ lưỡng, gặp đìa  không có cá mà xúm nhau quậy thì sẽ uổng công.

Hai dấu hiệu đìa có cá ở là cá lên ụp móng nhiều, và nước đục ngầu. Cá lên ụp móng là có cá nhưng chưa chắc có cá lớn; còn nước mà ngầu đục, thì thế nào đìa này cũng có cá lóc, cá trê quậy ồ đẻ.

Sau khi quan sát kỹ lưỡng đâu đó rồi, mọi người cùng nhau lội xuống đìa, thường thường nếu số người hơi ít, thì chừng ba bốn người hoặc đông hơn thì năm mười người một miệng đìa và bắt đầu quậy bằng cách lấy nôm úp lia chia cho cá hoảng hồn, rồi lấy tay chưn quơ đạp cho nước dậy bùn lên, mục đích làm cho cá tép bị nước bùn làm cay mắt và nổi lờ đờ cặp mé cỏ hay bơi bơi giữa vùng nước đục.

Khi thấy cá tép bắt đầu nổi, người ta dùng lưới kéo, hoặc rỗ xúc, hay cái xịa mà xúc lớp cá nổi trên mặt nước hoặc cặp theo mé đìa. Còn ai cầm nôm thì cứ nôm bắt cá lóc, cá trê, cá rô. Có người còn thọc tay vô hang bắt cá trốn trong hang hoặc mò cá rô, cá sặt, cá lóc, cá trê trốn dưới các dâu chân.

Sau khi thấy hết cá trong đìa, cùng kéo nhau lên bờ và đi kiếm thêm miệng đìa khác gần đó để quậy đìa tiếp. Một ngày như vậy, người ta quậy tối đa chừng ba miệng đìa là nhiều vì vừa quậy vừa bắt cá tép, tùy theo đìa lớn hoặc đìa nhỏ, cá nhiều hoặc cá ít, nhưng trung bình mỗi miệng đìa cũng phải mất vài ba tiếng đồng hồ mới xong.

Việc bắt cá, vì cùng quậy đìa chung, nên cá bắt để chung với nhau, chừng nào xong đâu đấy rồi, anh em mới ngồi lại chia cá cho mọi người. Cách chia cá này giống như chia chuột vậy, tức là cũng chia theo mớ nhắm tương đối thôi, chứ không phải cân phân nhỏ nhặt gì. Người nào đứng ra chia thì nhường cho những người khác bắt phần trước, mình bắt phần sau chót. Tuy nhiên, có nhiều lúc không bắt cá để chung như vậy dù cùng nhau quậy một miệng đìa, mà họ bắt riêng, ai được nhiều thì nhờ, ai được ít cũng vui vẻ nhận là bữa nay mình bắt cá dở, hổng có hên; rồi người nào bắt cá nhiều cũng cùng chia bớt lại cho bạn mình. Nhiều lúc quậy đìa như vậy rất mệt, nhưng trên đường về nhà với mớ cá trong thùng, ai cũng vui vẻ và hẹn hôm sau hay bữa nào rảnh rang đi quậy đìa nữa, vui lắm.

Tóm lại, qua ba hình thức bắt cá tép như  xúc lùm, nhảy hùm, quậy đìa mà tôi vừa kể, vào những ngày xa xưa ấy, dân quê miền sông nước thuộc những cánh đồng lúa mùa miệt cầu số Năm, Kinh xáng Bốn Tổng, Ba Bần, Định Mỹ, Bờ Ao, Bắc Dục, Cái Sao, Cái Dung, Tân Bình, Lấp Vò, Mỹ An Hưng, Chợ Mới, Mặc Cần Dưng, Hang Tra, Trà Kiết…, đâu đâu vào mùa nước ương này, dân ruộng khắp nơi không hẹn mà lại gặp nhau qua ba cách bắt cá tép vô cùng đơn giản này hầu chứng thực rằng câu nói mà nhiều người thường nói “làm chơi mà ăn thiệt”, ngoài ngụ ý chỉ việc trồng lúa, thì trong trường hợp bắt cá tép này cũng trúng lắm…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét