Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

MÙA CÁ VỀ ĐỒNG

Lương Thư Trung
Mùa cá về đồng


Tháng tư, trời mưa, thì cá về đồng. Qua các mùa xúc lùm, quậy đìa, tôi có nhắc về mấy anh chị cá sông, cá đồng bắt đầu những chuyến về đồng, trở lại những lung vũng, đìa bàu một thời  theo thời tiết tuần hoàn. Dường như trời đất sanh ra vạn vật muôn loài và trời đất cũng ban cho mỗi loài có những nhận biết lúc nào mình nên sống ở đâu và lúc nào về đâu. Các loại cá tôm cũng không ra ngoài các nhận biết ấy.

Khi trời vừa bắt đầu mùa mưa, cá trong ao hồ sông rạch cũng  sẵn sàng mang trong bụng những chùm trứng ửng vàng ra tới ngoài lớp da mỏng dánh. Thế rồi mưa già, cá biết là mình không thể nào ở mãi trong kinh rạch và các ao hồ này để mà sanh nở được; và rồi, chúng lục tục rủ nhau vượt ao hồ, giả từ kinh rạch mà lên đồng như một chuyến chuyển mùa…

Với cá lóc chúng không có mang bén nhọn, nhưng chúng có thân hình thon dài nên chúng tận dụng lợi điểm này mà dùng hết sức bình sinh nhảy vọt lên bờ đập, bờ mương mà lội ra rạch, ra kinh hầu tìm đường vượt kinh vượt rạch phăng phăng kiếm đường nước, ống bộng, kinh phèn để lên đồng.

Với cá trê trắng, cá trê vàng, chúng dùng hai cái ngạnh nhọn hoắc mà leo trèo qua những bờ đất thấp vượt khô, vượt cạn lần mò về lại những bến bờ ngày cũ. Trong trường hợp những nơi nào thuận tiện cho việc bơi lội bình thường của các loài cá, chúng cũng như cá lóc, cá rô, chúng lại bơi lội theo những dòng nước ngược mà chui vô bộng, vô hang cua dọc theo các bờ đập cũ ăn thông ra ngoài kinh mương mà trở về đồng như mọi loài cá đang tìm đường lên đồng theo cách thông thường.

Còn loài cá rô, chúng lại lên đồng bằng cách dùng hai cái mang bén ngót làm dụng cụ mà bò, mà lóc lên những vách ao hồ chớn chở hầu tìm đường ra sông rạch mà về đồng.

Cá đồng, còn được gọi là cá đen, về đồng là thế; nhưng với cá sông hay còn gọi là cá trắng, thì chúng lên đồng là nương  theo những con nước ngập lụt tràn đồng, bởi lẽ giản dị là nước bò tới đâu cá trắng theo tới đó. Những loại cá sông này chúng không háo hức vượt cạn, vượt khô mà lên đồng sớm làm gì vì lên đồng sớm quá chẳng những không có đủ nước để chúng bơi lội đã đành, mà còn vì từ lúc mới sanh ra đời chúng đã quen sông sâu nước chảy rồi. Nên khi cá trắng lên ruộng, lên đồng vào những tháng nước lụt, chẳng qua, đối với những loài cá trắng này chỉ là một chuyến du lịch vậy thôi chứ không như cá đen là trở về chốn cũ, dù đôi lúc cá trắng cũng về lại những vạt rong cũ một thời…

Biết được những mùa màng cá thích di chuyển như thế, nên dân ruộng mới nghĩ ra cách làm sao bắt cá vào mùa này, và đa phần là bắt cá chỉ để ăn thôi, khi nào dư giả mới bán lai rai vài ba ký gọi là có thêm ít đồng bạc mua trà, mua thuốc lá lai rai những lúc thư nhàn.

Với cá lóc, cá rô, cá trê trong các ao hầm,  vì thấy khi có mưa già cá trong hầm leo trèo hoặc nhảy ra ngoài khi có nước mát ngoài sông chảy riu riu vô hầm ngay chỗ búng đập, nên dân quê mới đào hai bên trong bờ đập này hai cái hố nhỏ và lấy hai cái hủ đựng đường chảy mà ở nhà quê thường hay dùng đựng nước lạnh để xài trong nhà, đem đặt vào hai cái hố mới đào này. Chung quanh miệng hủ, người ta lấy bùn non tô cho láng. Khi cá nhảy lên bờ đập, cá không ra bờ đập được vì đập còn cao, nên chúng rớt lại bên trong bờ đập và rồi tuột xuống ao hồ. Nhưng khi tuột dài theo mé đập như vậy, chúng lại bị lọt vô hai cái hủ đường mà người ta đặt sẵn hai bên và mắc kẹt lại trong này. Rồi những con cá khác lại nhảy lên tìm lối ra sông, rồi lại lò mò chui vô cái hủ nữa.

Thế là, qua một đêm mưa như vậy, dân quê ra thăm mầy cái lu chứa cá này vài ba lần và lần nào cũng có cá mắc kẹt trong lu như vậy, hổng nhiều thì ít, ham lắm. Nhứt là đêm mưa đầu tiên, cá nhảy vô lu nhiều lắm; rồi sau cũng có lai rai, dần dần cá trong ao hầm dường như bị người ta bắt hết trọi rồi, nên cá không còn nhảy hầm nữa. Nếu có còn chăng thì chỉ còn vài ba con cá trê trắng quậy hang ngay trong hầm để đẻ hoặc vài con cá lóc không đi đâu được, đành phải quậy ổ đẻ thí mạng cùi trong hầm, với những ổ trứng vừa mới nở còn đóng khói đèn đen nghịt, rồi lớn dần thành những bầy cà ròng ròng lội lòng vòng theo cá mẹ, cá cha  kiếm ăn trong những lùm cỏ xước, cỏ mồm, hoặc lục bình, rau muống ta, rau ngổ mọc dài trong mặt ao.

Ngoài ra, người ta còn bắt cá lóc, cá trê, cá rô trong các hầm ao bằng cách đặt lọp nơi các miệng ống bộng bên ngoài bờ đập. Khi nước sông liu riu chảy vồ ao hồ, cá bắt nước mát nơi ống bộng và tìm đường ra ngoài. Chúng chun vô ống bộng và rồi  lò mò chui vô hom  thứ nhứt, lại chui tiếp vô hom thứ hai và mắc kẹt trong lọp chận ngay bên ngoài. Sáng ra, chủ nhà ra bờ hầm thăm lọp, nghe cá nhảy lung tung trong lọp là chắc ăn có cá nấu chua hoặc kho mặn rồi.

Người ta còn đặt lọp bắt cá lên đồng trên những kinh phèn, hay các búng đập có ống bộng dẫn nước vô ruộng nữa. Với các đường nước kinh phèn, người ta chọn khúc kinh nào cò đường nước hẹp mà đặt cái lọp xuồng chỗ đó, rồi lấy cỏ ém cho cái lọp vừa kín vừa không bị nước cuốn trôi đi. Nước trên đồng róc rách chảy xuống, cá dưới kinh lội ngược nước lên đồng và tới chỗ cái lọp thấy cỏ phủ kín mít, không nghi ngờ gì nữa, chúng lò mò vọt lẹ vô cái lọp và mắc kẹt ở trong cái lọp hoài dù có cố vùng vẫy cũng không lội ra ngoài được.

Với các búng đập, ngược với cách đặc lọp trong ao hầm chờ cá ra, đằng này người ta đặt lọp phía bên trong búng đập. Sau khi vần xong cái nền cho êm, người ta mới đặt cái lọp xuống chỗ nền mới vần sao cho miệng lọp nằm trùm lên miệng bộng. Hai bên hông cái lọp cặm hai cây cho cái lọp không bị lúc lắc và cắm một cây phía sau đít lọp và buộc sợi dây vào cây cắm này và căng cho thẳng bằng cách cột chặt vô các cây đà ngang nơi búng đập với mục đích làm cho cái lọp không bị nước lớn cuốn trôi đi.

Cái lọp

Khi nước trên đồng chảy nhẹ ra sông, cá dưới sông bắt theo giọt nước mát mà lội vô bộng đập và lui cui chui vô miệng lọp tìm đưnờg về đồng. Nhưng khi mắc kẹt trong cái lọp này rồi, thì ôi thôi, sáng ra, chủ lọp đi thăm lọp thì trong bụng mừng mừng, còn các anh chị cá mắc kẹt này chỉ còn nước lóc róc rách trong cái lọp vừa dỡ lên khỏi mặt nước mà ngao ngán những ngày bôn ba tìm về cánh đồng năm cũ năm nào, nay đã hết đường về nữa rồi !!! …

Với cá trắng như cá thác lác, cá chạch, cá trèn, cá nhái, cá linh, cá rằm và nhiều loại cá khác ở sông, người ta bắt chúng vào mùa cá lên đồng này bằng nhiều dụng cụ khác nhau tùy theo thói quen của mỗi loài cá. Nhưng cách mà người ta ưa dùng nhứt là  vó cất. Loại vó cất này tiện ở chỗ là dùng bắt cá khi cá lên đồng, mà còn dùng lại được khi cá trên đồng lại ra sông vào tháng mười, tháng 11 âm lịch, cũng tiện lắm.

Về hình thức vó cất, chắc ai ai đã sống ở miền quê thuộc Long Xuyên – Châu Đốc đều biết hết cả rồi. Mới đây, trên báo chí, nhất là các trang báo trên liên mạng, người ta đem cả vó cất lên đường phố Hà Nội bắt cá khi nơi này bị mưa ngập lụt. Tuy nhiên, ngày xưa nơi miền quê tôi, người ta làm vó cất với các dụng cụ thường thấy như một dụng cụ đòn bảy cất lên và hạ xuống bằng hai trụ đứng làm điểm tựa.

Thường hai trụ này người ta dùng cây mù u già làm trụ thì  xài được năm ba mùa vì cây mù u rất dẻo, ít bị gãy. Giữa hai trụ này người ta khoan hai lổ ăn thông qua , hầu để đút qua hai lổ đó một cây sắt tròn, loại sắt lớn, đường kính cỡ  ba phân, hầu giữ cho hai cái cần vó cất (có nơi còn gọi là càng) dính vào nhau tạo thành một hệ thống cất vó lên và hạ vó xuống nhịp nhàng mà không bị bung ra.

Về hai cái càng vó cất, người ta cũng làm bằng những đọt cây sao già, nếu không có đọt cây sao, người ta dùng cây mù u, hoặc cây bằng lăng cũng được, miễn sao nó đủ sức chịu nổi sức nặng cái vó khi cất lên hoặc hạ xuống.


Vó Cất
Khi có cây làm càng vó rồi, người ta mới dùng cưa mà cưa dọc theo chiều dài mỗi cây như vậy ra làm hai  và ở gần cuối ngọn cây khoảng một thước,  họ để nguyên, không cưa cho cái càng rời ra. Cưa xong hai cái càng rồi, người ta căng càng vó ra thành  hình tam giác dùng những cật tre gốc hay loại gỗ chắc như cây tràm bằng cườm tay để đóng thành hình nấc thang . Đóng những cây ngang hình nấc thang như vậy có hai công dụng. trước nhứt nó là làm cho cái càng vó cứng thêm và  thêm nữa, những nấc thang này sẽ làm cho các người cất vó khi di chuyển trên các càng vó này như đi trên cái thang mà không bị lót chưn và khỏi té ngã.. Thế rồi, họ mới để hai cái càng này ra  ngoài nắng phơi cho cây ráo mủ, nhưng không phơi cây khô quá vì cây khô thì giòn mà giòn quá lại dễ bị gãy.

Sau đó, họ lại tìm bốn cây tre mạnh tông khá già dùng làm bốn cái gọng vó. Trường hợp không có tre mạnh tong, họ xài tạm loại tre mỡ, tre gai, nhưng không gì bằng tre tàu, tre mạnh tông mà làm càng vó thì bền nhứt . Người ta  róc sạch nhánh tre và đốt lửa uốn cho cây tre cong lại theo chiều cong vút như các gọng vó mà các bạn thường thấy. Ngày xưa, người ta hay mua những miệng chài, hoặc lưới về ráp lại làm vó cất; nhưng sau này ở các tiệm bán chài lưới vùng Long Xuyên có bán những miệng vó đan sẵn bằng chỉ gai hoặc chỉ nilon, tiện và bền.

Dụng cụ sẵn sàng rồi, người ta chọn những nền để xuống vó. Thường thường mùa cá lên đồng hay mùa cá ra sông , các loài cá theo những vàm mương, vàm kinh để di chuyển theo từng mùa. Do vậy, những nền vò cất thường đặt nơi những vàm kinh rạch như vậy. Trường hợp nhà ở xa vàm kinh, vàm rạch, người chủ vò cò thể hỏi chủ đất gần vàm kinh cho mình đặt nhờ nền vó. Ngày xưa, không ai cho mướn nền bao giờ, mà chỉ cho mượn chỗ dười kinh rạch vậy thôi. Để đáp lại, chủ vó thường cho chủ đất cá tép khi mình cất vó có cá. Cho qua cho lại như vậy chẳng qua phép xử thế ngày xưa chỉ vì cái tình chòm xóm hơn là so đo hơn thiệt gì trong các việc nhỏ nhặt này.

Khi có nền rồi, người ta mới lội xuống dò xem chỗ này có gốc cây hay chà lú gì không. Nếu có gốc, có chà, thì họ xúm nhau lặn hụp lấy chà, lấy gốc lên tránh cho vó không bị vuớng chà gốc sau này có khi bị rách vó. Sau đó, người ta  xuống hai trụ vó trước, rồi mới gắn hai cái càng vó sau . Ở mỗi hai gốc càng vó này, người ta cũng khoan hai cái lỗ sao cho cây sắt xỏ qua trụ vó lọt qua được làm thành điểm tuựa của vó cất.

Muốn giữ cho hai càng vó có thể kéo lên hạ xuống được, ngưới ta dùng dây kẻm gai buộc hai đầu hai càng vó sao cho càng trong bờ vừa hạ xuống ngang mặt nước thì phần càng vó đầu kia kéo cái vó lên khỏi mặt nước là thăng bằng. Muốn thế, hai càng này ở vị trí hai cạnh một tam giác cân, và sợi dây buộc hai càng là đáy của tam giác cân ấy.

Xong đâu đấy, người ta mới buộc bốn gọng vó bằng bốn cây tre mạnh tong vừa kể, gốc ở trên cao, ngọn quay về hướng mặt nước, tạo thành hình chong chóng với  bốn nhánh cong vòng xuống như bốn vòng cung, mà trong ca dao thường hay nhắc:”Trời mưa nhà dột chảy re, Lá tre hứng nước ngọn tre cong vòng”.

Sau đó, người ta mới căng vó vào bốn chót ngọn của gọng vó ấy. Dù hứng cá về đồng vào tháng tư,  tháng 5 hay cá ra sông tháng 10, tháng 11 âm lịch, miệng vó bao giờ cũng quay về hướng ngược nước và chìm sâu xuống cỡ năm bảy tấc để cá khỏi phải bị vướng lưới mà dội lại. Ba phía kia của vó cất ở mức cao hơn mặt nước vài tấc cho cá tép khi vào vó cất rồi là khó mà nhảy ra ngoài được.

Ngoài ra, để tiện việc cất vó lên xuống, người ta buộc vào đầu càng trong phần gần bờ một sợi dây luộc dài . Sợi dây luộc này giúp cho việc cất vó lên và hạ vó xuống nhịp nhàng mà không bị trở ngại khi phải leo trèo lên để kéo cây càng vó xuống lúc chúng ở trên cao vòi vọi. Thêm vào đó, người ta còn buộc ở bốn gọng vó bốn sợi dây kẻm gai dài và căng sao cho bốn sợi dây này vừa đủ để giữ cho bốn gọng vó không bị xê dịch theo gió hầu mỗi khi mình kéo vó lên xuống nó vững vàng, không bị lật nhào, gãy đổ.

Thời khắc hứng cá tùy theo con nước lớn ròng mà hứng. Thường thường khoảng thời gian lý tưởng nhất để hứng cá lên đồng là khi nước bắt đầu vừa đứng lớn, hứng cho tới khi nước chảy hơi mạnh thì ngưng vì nước chảy mạnh quá cái tùng vó bị nước bọc và căng tròn nặng quá, chẳng những kéo vó lên vừa nặng, có khi bị gãy gọng, gãy càng và cá khi nước chảy mạnh quá cũng khó mà hứng bắt chúng được.

Thường thường bắt cá vào mùa cá lên đồng này chỉ được vài tháng. Tới nước dưới sông chảy xiết vào tháng sáu, tháng bảy thì người ta cuốn vó về nghỉ chờ mùa cá ra sông vì lúc bấy giờ cá dưới sông đã theo nước vô đồng nhiều rồi, nếu còn cũng chẳng còn bao nhiêu, mà nước sông chảy xiết quá nên cất vó vào lúc này vất vả mà không được bao nhiêu cá tép gí!

Cái Nôm
Ngoài những cách bắt cá lên đồng vừa kể vào mùa này, trong bài mùa bắt lươn, bắt lịch, tôi có nhắc cách soi lươn , soi cá vào mùa này. Ở đây, chỉ xin nhắc lại cách soi cá tháng mưa . Thường thường, sau khi vượt sâu, vượt cạn lên đồng được rồi, các loài cá cứ tìm lung vũng để quậy hang, quậy ổ mà đẻ. Và nông dân cũng biết như vậy, nên người ta mới rủ nhau xách đèn đi soi cá dọc theo các lung vũng ấy. Người ta soi cá bằng nôm, bằng chỉa, bằng dao dâu, dao yếm.

Dù soi cá bằng phương tiện nào, ngày xưa cốt yếu là soi cá để ăn chứ ít ai nghĩ bắt cá để bán, vì hồi đó cá nhiều lắm và ai bắt cũng có, nên bán cho ai. Và nếu có bán cá soi được thì bán cũng chẳng được mấy đồng. Do vậy mà ở nhà quê vào những năm cách nay năm sáu mươi năm có một thời cá tôm nhiều vô số kể và bắt cá theo từng mùa như mùa cá lên đồng là một thú vui nơi thôn xóm quê mùa vậy.

Tháng bảy nước nhảy khỏi bờ là thời khắc cá đã lên đồng nhiều rồi, để tháng tám chúng lội tung tăng trong những cánh đồng lúa mùa rì rào; rồi tháng chin cá tôm lại có những cuộc sống thích hợp với những cánh đồng nước cỏ trong leo lẻo với những đám lúa tròn mình. Chìm sâu dưới những vạt lung xanh mướt ngọn mã đề, rong đuôi chồn, bông súng, củ co,  cùng những gốc lúa thơm thơm mùi nước cỏ che khuất cả một vùng yên tịnh mênh mang làm ấm những căn nhà cho cá tôm nhàn du trong thế giới riêng tư của chúng, và cũng là dịp để dân ruộng có những cuộc vui thú riêng của họ trong những mùa màng tôm cá này sao cho phù hợp với thiên thời, địa lợi , nhơn hòa của mình. Sống ở nhà quê vào những ngày xa xưa ấy là sống cốt lấy chữ nhàn làm chính, lấy chữ tương thân làm trọng, lấy chữ tình cảm giữa người với người, giữa chòm xóm làng giềng với nhau làm bền là một lẽ sống ý nghĩa một thời vậy!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét