Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

MÙA GIĂNG LƯỚI



Lương Thư Trung
Mùa giăng lưới
 
Nơi miền quê miệt Long Xuyên- Châu Đốc với các kinh rạch như con sông chảy vô Núi Sập, Ba Thê,  rồi lên nữa với rạch Mặc Cần Dưng vô Cần Đăng, Tri Tôn; phía trên nữa có kinh xáng Vịnh Tre, rạch Cái Dầu; đổ qua Tân Châu, Cao Lãnh, xuống  Sa Đéc bên sông trước với Tùng Sơn, Mỹ An Hưng, Tân Mỹ, Tân Qúi Đông, Tân Qúi Tây cũng như về sông Hậu Giang từ Vàm Cống chạy dài xuống Thốt Nốt dọc theo các vùng  quê Cái Dầu, Định Yên, Hòa Lạc, Định An, Lai Vung thuộc phần đất Lấp Vò cũ và giữa dòng sông cái với các cù lao vùng Tân Lộc Đông, Tân Lộc Tây thuộc Thốt Nốt hoặc kinh Cái Sắn vô vùng Tân Hiệp vào mùa tháng năm nước đục là cả một vùng sông rạch rộng bao la này vào mùa thả lưới cá mè vinh, cá dảnh, cá hô, cá tra, cá vồ, cá bông lau từ miệt Biển Hồ trên Cao Miên tràn xuống vùng châu thổ miền Tây Nam Phần này như những ngày hội thả lưới thưa bắt cá trắng vào mùa.

Những năm 1950, dân cư các vùng này thường sắm lưới rất thưa, nhứt là lưới thả ngoài sông cái thì lổ lưới có người đan cỡ một tấc là ít. Còn trong các rạch nhỏ thì mặt lưới nhỏ hơn nhưng nhỏ gì thì nhỏ mỗi lổ lưới căng ra đo được cỡ tám phân. Sở dĩ ngày xưa vào mùa này dân ruộng ưa sắm lưới thưa vì cá nhiều và cá lớn, nên ít ai sắm lưới dày.

Lưới hồi đời trước người ta tự đan lấy và đan bằng chỉ, bằng gai nếu muốn bắt cá lớn; còn bắt cá rô người ta thích đan lưới bằng tơ vừa mịn vừa bén cá . Với mùa thả lưới tháng năm, dân quê đan lưới xong và bắt viền sao cho lưới không quá dùn mà cũng không căng mặt quá thẳng. Vì nếu bắt lưới mà dùn quá khi cá gặp lưới cá không chịu đăm vào lưới, nhưng bắt lưới căng mặt quá thì  mặt lưới không có tùng đủ để giữ con cá khi cá vướng lưới . Do vậy, thường thường người ta bắt viền trên hơi thẳng và viền dưới hơi dùn để cá đăm vô lưới là dính liền không vùng vẫy đi đâu được. 

Thường thường vào mùa này, lưới thả thường căng ngang sông rạch nếu sông rạch nhỏ, ít khi thả lưới cặp mé bờ . Lưới sau khi bắt viền xong, dân quê bắt thêm phao viền trên. Phao thường được chuốt từ thân gỗ xốp như cây gòn vì gòn nhẹ và làng quê miền Tây nơi nào cũng có trồng gòn. Nếu không làm phao bằng cây gòn, người ta làm phao lưới bằng gỗ cây vông đồng, loại cây thường dùng là guốc vông những năm thập niên 1940, 1950, ván cũng nhẹ như gòn. Vả lại vông đồng là loại cây mọc hoang nên vườn tre nào ngày xưa cũng có cây vông đồng mọc đầy. Về sau này khi có lưới đan bằng nilon, người ta cũng chế ra phao lưới làm bằng nhựa nilon luôn thể . Phao lưới được kết ở viền trên và hai phao cách nhau khoảng từ năm tới sáu, bảy tấc là vừa, vì kết xa quá lưới dễ bị chìm mà kết nhặt quá thì lại tốn nhiều phao. Ngoài phao ra, viền trên người ta còn gắn những cây cờ bằng vải vàng, xanh hình cánh bườm nhằm cho xuồng ghe tàu bè thất lưới đang thả mà tránh lưới.

 Riêng viền dưới vì muốn cho khi thả lưới thì dạo lưới phải thẳng, nên người ta kết chì; giữa hai cục chì cách nhau cũng cỡ năm tấc là vừa. Vì lòng sông, lòng  rạch vào mùa này thường sâu nên dạo lưới ít nhất cũng phải một thước rưởi nếu lưới  thả trong các rạch nhỏ như rạch Mặc Cần Dưng; còn lưới thả ngoài sông cái, dạo lưới phải dài hơn, có khi bề dạo dài tới hai thước tây mới đủ sức bắt cá hô, cá bông lau, cá vồ cờ, cá tra, cá vồ đém, cá leo, cá kết …

Miệt Hòa Lạc, Định An, Định Yên, Lai Vung ngày nay còn giữ được cách thả lưới bắt cá bông lau trên các vịnh thuộc sông Hậu Giang dù ngày nay cá bông lau không còn nhiều như cách nay hơn nửa thế kỷ . Hồi đời xưa chẳng những các vùng vừa kể mà đâu đâu cũng vậy, ai muốn thả lưới bắt cá lớn trên sông rạch thì cứ thả; còn ngày nay vùng Hòa Lạc phải chờ tới phiên, tới chuyến mới tới mình thả lưới bắt cá bông lau. Có nhiều người phải chờ tới một tuần hoặc mười ngày mới tới phiên mình. Có người tới phiên rồi, lưới lại không dính cá, phải chờ đáo phiên lần nữa … Thiệt là mỏi mòn trông đợi mấy chị cá bông lau béo ngậy này vướng lưới, chứ đâu phải dễ dàng gì . Ngày nay khác ngày xưa là vậy.

Những năm 1945, miệt Mặc Cần Dưng mùa thả lưới tháng 5 này cá dính thường là cá mè vinh, cá dảnh rất lớn với cặp trứng thè lè. Lúc bấy giờ có con lớn bằng cái dĩa bàn. Lưới thường thả vào lúc nước đứng ròng. Sở dĩ vậy vì dân quên đón cá đi ăn khi nước lớn và lúc nước đứng ròng chúng chuẩn bị về chà, và người ta thả lưới lúc này là nhằm bắt cá về chà . Có khi người ta thả lưới lúc nước đứng lớn là cũng nhằm bắt cá từ trong các đống chà cá ra sông để kiếm ăn . Nhưng khi nước lớn mạnh cũng như nước ròng mạnh thì dân quê cuốn lưới lên và bơi xuồng về nghỉ ngơi dù đặng thất gì cũng nghỉ vì nước lớn hoặc ròng mà chảy xiết thì lưới dễ bị trôi xa và rách lưới.

Tháng bảy, tháng tám là ngưng thả lưới dưới sông vì cá đã lên đồng nhiều rồi. Và dân quê theo cá lên đồng mà bủa lưới cá trên đồng. Vào những tháng đầu mùa này, người ta có lưới cá rô, hồi xưa cũng đan bằng chỉ, bằng gai chứ không có lưới nilon như sau này . Đặc biệt lưới cá rô viền dưới không cần phải bắt chì và dạo lưới rất ngắn, cỡ tám tấc vì cá rô ưa ăn mồi trên mặt nước , Lưới cá rô đầu mùa thì dày, lổ lưới cỡ 2 phân rưởi; đến tháng 9, tháng 10, cá rô lớn rồi và lưới cá rô cũng lớn theo và mặt lưới cỡ 4 phân, 4 phân rưởi. Hồi xưa, lưới cá rô mà lổ lưới cỡ 4 phân, 4 phân rưởi thường bắt cá rô mề, có con gần bằng cườm tay, bụng đầy mỡ, béo lắm. Vào mùa lúa giáng, nhất là món lúa  sóc so có gạo mới mà nấu cơm ăn với cá rô lưới 4 phân, 4 phân rưởi muối sả ớt chiên cho vàng, ăn cơm hết nồi hồi nào không hay. Ngon lắm!

Cá rô câu khác cá rô lưới ở chỗ cá rô câu thì có cá nhỏ, cá lớn lộn xộn; nhưng cá rô lưới thì cá dính một cỡ với nhau đều rang, hổng có con lớn con nhỏ như cá rô câu . Người nhà quê nói cá rô lưới là cá lựa là vậy.

Hồi đời trước giăng lưới cá rô là giăng nền nằm, cố định một luồng, chứ ít khi dời luồng mới như sau này . Dân quê bủa lưới theo các giồng ranh lúa mùa khi mùa nước ngập sâu cá vô cạn kiếm mồi là dính lưới.  Khi bủa lưới xong, người ta nằm sấp xuống mũi xuồng, tay trái nắm viền lưới, tay mặt quạt quạt nước cho dạo lưới thẳng và chìm xuống gần sát mặt đất. Chốc chốc, dân giăng lưới ngoái lên bốc một nắm lúa ngâm rải dọc theo luồng lưới  dưới lườn xuồng làm mồi nhử cho cá bu lại ăn rồi dính lưới . Ngày xưa cá rô mê mùi lúa ngâm lâu ngày .

Sau này, thập niên 1970, 1980, dân giăng lưới cá rô không dùng lúa ngâm làm mồi nữa, mà dùng xác mắm cá linh trộn với cám rang và bùn non làm mồi.. Và họ cũng không cần phải nằm sát mũi xuồng dằn lưới như xưa nữa. Cách bủa lưới sau này là vừa ngồi ngay mũi xuồng, một chưn xếp bằng trên xuồng, một chưn kia cho xuống nước nhằm đẩy mũi xuồng đi tới. Họ bủa lưới tới đâu, tiện tay lấy chút xác mắm cá linh trộn với cám rang và chút bùn non rải tới đó làm mồi.

Sau khi bủa xong hết lưới trên xuồng, họ mới bắt đầu quay trở lại và nằm sấp nơi mũi xuồng mà dằn lưới như ngày trước. Dằn lưới cách này, khi họ bắt đầu trở lại dằn lưới và rải mồi một lần nữa, cho tới khi giáp hết các luồng lưới vừa bủa xong, chẳng khác nào họ thăm được một giác lưới rồi.

Lợi là lợi chỗ đó vì cá rô thì ưa ăn mồi xổi, nên dân ruộng biết cá thích ăn mồi bất kể chết nên dụ cá dính lưới bằng cách vừa bủa lưới vừa rải mồi. Nhưng giăng lưới cách này có cái hại là cá dính qua một bận là hết cá, nên dân giăng lưới phải dời luồng đi chỗ khác, nếu làm biếng không dời lưới thì cá không còn dính bao nhiêu vì cá có bao nhiêu dính hết lúc mới bỏ mồi rồi.

Vào tháng 8, tháng 9, tháng 10 cũng là mùa giăng lưới cá linh. Lưới cá linh hồi đời trước vì đan bằng chỉ, bằng gai nên lưới không bén như mấy năm sau này đan bằng nilon sơi nhỏ và mềm. Lưới cá linh dày cỡ một phân vào đầu mùa ; đến gần cuối mùa, nhứt là lúc cá bắt đầu ra sông vào con nước kém mùng 10 tháng 10 âm lịch thì lưới phải thưa hơn nhưng không lớn quá hai phân; trung bình lổ lưới một phân rưởi là bắt cá linh lớn lúc cá ra sông là vừa.

Nhớ mấy năm 1980, vào mùa này tôi bủa chừng năm trăm thước cá linh từ lúc chùa vừa công phu hiệp nhứt, tới lúc trời còn tờ mờ sáng là bủa xong lưới, thì  tới chiều về, cá linh dính đầy vài ba khoang xuồng. Có năm tôi giăng lưới lắc nhắc mà ở nhà ủ cả chục khạp mắm cá linh để nấu nước mắm, mỗi khạp da bò ủ được một giạ rưởi cá tươi, ăn không hết. Rồi lại tới mùa, giăng tiếp, nước mắm cá linh còn lại kêu cho bà con nghèo trong xóm lấy về ăn lấy thảo. Vui lắm.
  
Có mấy nơi bủa lưới cá linh ăn tiền nhứt là trên cánh đồng nước bao la, nơi miếng đất nào gần ngọn mương là cá linh nhiều. Thêm nữa, giữa cánh đồng nhiều rong đuôi chồn, mã đề dày bịt  mà có một cái láng trống nằm ngay giữa đất, và nếu bủa lưới ngay láng trống này  chắc chắn lưới vừa bủa xong vài chục phút là cá linh sẽ dính guộn viền.  Hoặc những miếng ruộng nào mà nhạn đất cứ bay vần vần trên bầu trời hoài không chịu bay đi nơi khác, thì đây là dấu hiệu cá linh đang bơi lôi trong rong, trong cỏ nhiều lắm; nếu chịu để ý các bầy nhạn và bủa lưới cá linh vào những chỗ đó thì cá linh dính lưới nhiều lắm.

Nói cá linh trên đồng nhiều vô số kể nhưng không phải lúc nào cá cũng dễ dính lưới. Một ngày, thường thường, cá chỉ dính nhiếu nhất vào hai giác: buổi sáng khi mặt trời chưa mọc và buổi chiều khi mặt trời sắp lặn. Do vậy, muốn giăng lưới cá linh phải chuẩn bị đi cho thật sớm sao cho trời vừa hừng sáng là bủa xong hết các tay lưới mà mình mang theo. Buổi chiều nán ở lại chờ cho tới trời gần sụp tối mới cuốn lưới. Giác chiều này cá linh dính không cách gì gỡ cá cho xuể, phải cuốn lưới mang về nhà và cả nhà xúm nhau giũ lưới tiếp cho cá linh văng ra, có khi tới tối mịt mới xong. Nhiều lúc giăng lưới cá linh rất cực như vậy nhưng vui lắm.

Còn giác trưa, trời nắng gắt cá linh dính lai rai vì chúng  trốn trong rong, ít đi kiếm ăn. Khi trời đang nắng mà bổng đổ cơn mưa bất chợt thì coi như cá linh ở đâu là cứ ở đó, không di chuyển cho dù đang mùa cá ra sông tháng 10, tháng 11 âm lịch. Gặp mấy trường hợp này, chúng tôi thường cuốn lưới và chống xuồng về nghỉ ngơi cho khỏe, vì cá có dính đâu mà ngồi chờ ….

Lưới cá trắng, còn gọi là lưới thưa,  là loại lưới nhằm giăng bắt các loại cá mè vinh, cá dảnh, cá thác lác trên những cánh đồng ngập lụt tháng 8, tháng 9, tháng 10 âm liịch . Mặt lưới có kích thước từ năm phân tới bảy, tám phân tùy theo cá đầu mùa hay cá cuối mùa, nhưng không thưa quá như lưới thả dưới sông lúc tháng tư, tháng năm mưa già, nước đục.

Thường thường dân giăng lưới cá trắng vào mùa này là dân biết hưởng nhàn, bởi lưới cá trắng là loại lưới nằm chờ thời chứ không như lưới cá rô, cá linh là loại lưới bủa xong cá dính liền. Các đặc tính của cá mè vinh, cá dảnh là chúng sống trong rong cỏ, nơi nào có rong đuôi chồn, mã đề nhiều là chúng ưa ở trong mấy vạt đất đó vì mấy thứ này cũng là thức ăn nuôi chúng mập mạp và mau lớn. Nhưng ở trong rong hoài cũng chán. Mấy loài cá này cũng thích lội nghêu ngao từ lung vũng này qua lung vũng khác chơi cho vui. Biết vài đặc tính như vậy, nên dân giăng lưới mới lựa những đám rong đuơi chồn và mã đề mà dọn các luồng lưới cá trắng dài hun hút băng qua nhiều vạt đất tùy theo lưới trên xuồng nhiều hay ít . Dọn luồng như vậy giống như dọn luồng câu mồi cua, miễn  làm sao cho luồng lưới nước chảy êm êm, nhè nhẹ mà hấp dẫn cá bơi qua bơi lại từ những chỗ rong mọc dày bịt qua chỗ lúa lưa thưa như đi chơi, đi dạo vậy.

Ngày xưa, và mãi sau này giăng lưới cá trắng không cần bỏ mồi như lưới cá rô vì  giăng cá trắng thật ra là mình đón đường cá đi chứ không phải mình dụ cá về với mình. Tuy vậy, đôi khi người ta cũng rải hột gòn, lúa ngâm theo luồng lưới, nhưng hiếm lắm. Và nếu có chút mồi lai rai như vậy thì cũng chỉ có tính kích thích tâm lý của niềm hy vọng nơi người chờ thời cá lội thôi, chứ chẳng hữu hiệu gì cho lắm.

Dọn luồng xong, có khi lưới nhiều phải dọn vài ngày mới xong, rồi bủa lưới. Dân không chuyên môn thì ngồi trước mũi xuồng bủa lưới; dân chuyên nghiệp thì vừa đứng chống xuồng, vừa bủa lưới, xuồng lướt tới thoăn thoắt mà lưới cứ xả ra đều đều, không bị rối, đúng là nhà nghề . Bủa lưới xong là tới màn dằn lưới như cách dằn lưới cá rô. Nghĩa là mình nằm sấp xuống mũi xuồng, một tay lần viền lưới đưa chiếc xuồng đi tới, một tay quạt quạt nước cho dạo lưới chạy theo sức nước cuốn do tay mình quạt mà căng dạo lưới thẳng ra gần sát mặt đất.

Xong đâu đấy, vài ba xuồng lưới tìm một gốc cây lớn giữa đồng hoặc đám điên điển, hay rặng trâm bầu bên bờ kinh hay thềm đìa mà đậu xuồng và căng cà rèm lên che nắng che mưa rồi lo nấu cơm, móc hầu  mấy con cá mè vinh vừa dính lưới khi mình dằn lưới bỏ vô nồi cơm hấp cho cá chín và cùng nhau ăn cơm cho vui . Cá tươi mà hấp cơm thì ngọt thịt lắm . Giữa cánh đồng nước mênh mông, hai ba người cùng giăng lưới với nhau có đủ chuyện để kể cho nhau nghe về mùa màng, về mấy đêm trước giăng lưới vạt đất nào, chỗ nào có ma đè, chỗ nào dính cá mè vinh cườm và chỗ nào bị cua kẹp … Tức là đủ thứ chuyện trên trời dưới nước mà chân tình chia sẻ những kinh nghiệm trong nghề bắt cá tôm thời lúa mùa giăng mắc khắp các cánh đồng nước lụt.

Cơm nước xong, khoảng chừng 10 giờ đêm là mấy anh em rủ nhau thăm lưới giác nhứt. Thăm lưới bắt đầu như lúc dằn lưới. Người ta nằm sấp trước mũi xuồng, một tay nắm viền lưới phăng xuồng đi tới, tay mặt quạt quạt nước cho dạo lưới căng ra trở lại như lúc ban chiều. Trường hợp dính cá, cách xa chừng năm ba thước là dân giăng lưới nhà nghề là biết liền với các dấu hiệu như viền lưới bị liệt xuống nước hoặc có sức cá vùng vẫy nên dạo lưới bị giựt giựt. Gặp những con cá vừa phải, người ta cầm chắc con cá và gỡ xuôi theo lổ lưới; trường hợp con cá mè vinh cườm khá lớn, dân giăng lưới chuyên nghiệp thò tay lấy cái vợt múc con cá vô vợt và gỡ ngược con cá, tức là chỉ gỡ hai cái mang khỏi lổ lưới thôi vì cái mình con cá không chui lọt qua lổ lưới được. Nếu không có mang theo cái vợt, phải cầm con cá cho chắc ăn, nếu không cá lớn sẽ vùng mạnh và vuột khỏi tay như chơi . Cũng có nhiều trường hợp gặp cá lớn như vậy, khi mình lần viền lưới gần tới nó, chưa kịp cầm tới cái mình con cá thì nó lại giật mạnh một cái là không còn thấy tâm hơi con cá đâu nữa, vừa chắt lưỡi hít hà vừa tức mình sao bàn tay châm chạm quá mạng, để cá sẩy. Do vậy, dân quê hay nói “cá sẩy là cá lớn”, nghe rất có lý.

Thăm lưới xong, chống xuồng về lại chỗ đậu xuồng cũ rồi chờ bạn mình về hỏi thăm nhau cá dính khá hông, uống thêm một tuần trà, rôồ đi ngủ và chờ chùa công phu hiệp nhứt rủ nhau thức dậy cuốn lưới và chống xuồng về . Trên đồng nước mênh mông,  họ ỳ hú nhau inh ỏi và hỏi thăm nhau đêm qua đứa nào dính cá nhiều, cá ít, nghe rất thân tình và chơn chất lắm.

Hồi xưa, thập niên 1940, 1950 cá nhiều nên ai cũng được cá đầy nhóc xuồng, toàn là cá lớn. Sau này, những năm nào nước ngập sâu, đường sá, vườn tược ngập lút hết, cá trên Cao Miên theo nước tràn xuống, giăng lưới cá trắng biết mê . Mấy năm 1960, 1963, là những mùa nước lụt lội rất lớn, dù lúa mùa còn ít so với trước kia hoặc mùa nước lụt vào năm 1978 dù làm lúa thần nông, nhưng cá trắng nhiều vô số kể . Nhứt là năm 1978, nhiều nhà thiếu gạo,  nhưng nhờ lưới cá trằng dính nhiều nên nhiều nhà nấu cháo bỏ cá mè vinh, cá dảnh vô nồi cháo cho nhiều mà ăn cá cho đở đói . Ngày nay, vì các làng quê làm lúa ba mùa, nên chung quanh các cánh đồng vùng Mặc Cần Dưng, Chợ Mới, Mỹ Luông, Lấp Vò và nhiều vùng khác phải đấp bờ ven để chận không cho nước ngập lúa nên cá không lên đồng được và mùa giăng lưới cá trắng giờ chỉ còn trong hoài niệm của những người nhà quê già…

Nhưng những năm 1948, 1949 miệt Mặc Cần Dưng và các vùng phụ cận, dân quê còn có một loại lưới phất vào khoảng tháng chạp, tháng giêng lúc cá xuống sông hết rồi, nhằm bắt cá rô ụp móng theo mấy gốc cây gáo, cây bảy thưa, cây bần . Lưới được đan bằng tơ rất bén cá và có kích thước ngang khoảng hơn một thước, dài chừng hai thước; không bắt viền như các loại lưới vừa kể mà chiều ngang manh lưới được buộc vào một ngọn trúc dài chừng ba thước, ba bề kia thả ra như lá cờ, nên dân quê gọi là lưới phất hay lưới cờ.

Thường thường vào lúc nước nhửng ròng, người ta bắt đầu đi phất lưới này. Ngồi trên xuồng buộc vào bụi sậy bên gốc gáo, một tay cầm cái cán lưới và trải mặt lưới cho xuôi theo chiều nước chảy. Cá rô trú ẩn trong gốc, trong chà lâu lâu vọt lên mặt nước ụp móng và chúng ụp móng ngay tay lưới đang trải dài trên mặt nước và hai cái mang của chúng có gai bén nên dính lưới không sao vùng vẫy cho sứt ra được. Và người ta chỉ cần cầm cán lưới giơ cao lên xuồng và gỡ cá . Có khi dính hai ba con một lượt vì cá rô ở theo bầy và thường lên ngớp một lượt nên chúng dính mà các bạn ở dưới nước không hay biết gì . Hết gốc gáo này tới gốc gáo khác và cứ phất lưới như vậy suốt ngày cá rô mề dính nhiều lắm, ăn không hết; vì cá dính bắt ham, nên ngày nào vào mùa này bắt cá rô bằng lưới cờ cũng là một trong nhiều thú vui ở nhà quê vào những năm xa xưa ấy.

Nhớ có lần tôi kể về người bạn nghèo cùng giăng câu, giăng lưới với tôi những ngày xa xưa, một thời , nhưng nay anh cũng đã ra người thiên cổ rồi, và dịp này, tôi xin ghi lại  vài câu thơ cũ lâu rồi như một chút lòng của người giăng lưới già nhớ bạn nghèo cùng giăng lưới ngày nào:

“Văng vẳng xa đưa tiếng trích rừng,
Kìa bầy nhạn đất gọi tưng bừng
Chim ơi, đâu nữa mùa đẻ trứng,
Những luống cày sâu, nước ngập đồng.

Bạn ơi, bạn có còn giăng lưới,
Chiếc xuồng câu, cũ mục rong rêu
Cá ơi, cá có còn ụp móng,
Mang đến niềm vui một kiếp nghèo !

Điên điển vàng bông, trời cũng vàng
Bạn tôi áo rách lòng không than
Bông ơi, cho dẫu bông đồng nội,
Làm đẹp đất trời, bông điểm trang.

Xa quê giờ đã mấy mùa mưa
Lòng vẫn man man nhớ chốn xưa
Nhớ bạn lưới câu từ dạo ấy,
Chiếc xuồng, con cá, một bài thơ …”

Mùa giăng lưới, cũng như giăng câu, ngày xưa là những công việc phụ nhưng vui vì cá tôm lúc bấy giờ nhiều lắm và dính cá ai cũng ham. Tuy vậy, nếu ai làm chơi thì cò ăn, bằng chí thú làm nghề này hoài thì cực và không dư dả gì nhiều. Do vậy mà người xưa mới nói “nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” cũng có cái lý của nghề hạ bạc...


Lấp Vò, ngày 09 tháng 12 năm 2008

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét