Lương Thư Trung
Mùa câu cá và giăng câu
Nhắc đến mùa câu cá là nhắc cái tổng quát như vậy, nhưng
từ xa xưa cho tới ngày nay việc câu cá là một công việc vừa giản dị mà cũng vừa
phức tạp. Nó giản dị vì khi mình nói tới việc câu cá người ta thường chỉ nghĩ
đến lưỡi câu và mồi; nhưng nó phức tạp vì không phải loài cá nào cũng giống như
loài cá nào. Do vậy, nói tới mùa câu cá là nói cái nét riêng của từng loại câu,
từng thời điểm và từng loài cá mà dân quê ngày xưa đã từng áp dụng vào các cách
câu cá qua mấy mươi năm dày dạn kiếm tìm và tạo thành những cách câu cá sao cho
thích ứng với những mùa màng nơi các sông rạch ruộng nương của vùng đất đầy sông
rạch thuộc miền Tây Nam Phần của mình.
Trước nhất, vào tháng tư, khi trời mưa già, nước bùn
trên các con đường quê chảy xuống sông rạch làm nước sông các nơi ngầu đục là cá
chốt giấy trong các dòng sông bắt đầu thè lè những cặp trứng chuẩn bị một mùa
lên đồng để tìm chỗ đẻ. Vào mùa này, dân quê có người câu cá chốt giấy, cá chốt
trâu, cá chốt chuột bằng cần câu với mồi dế cơm, dế nhủi là chính, nhưng cũng có
người còn câu cá chốt bằng mồi trứng kiến vàng.
Vào
những ngày mưa, kiến vàng thường làm ổ trên các loại cây như xoài, gáo, bằng
lăng, bần để chun vô ổ đẻ trứng và trốn mưa . Dân quê mới dùng cây sào thật dài,
rồi buộc cái vợt làm bằng vải mùng hay cái thúng dê ở đầu cây sào và rồi tréo
lên các loại cây có ổ kiến vàng mà phá ổ chúng cho trứng rớt ra và lấy trứng này
làm mồi câu cá chốt.
Thường thường, dân quê câu cá chốt bằng cần câu làm bằng
ngọn trúc; nhưng cũng có người không câu bằng cần câu mà họ câu cá chốt bằng câu
quăng .. Người ta tóm những lưỡi câu cách nhau cỡ tám tấc một lưỡi vào giường
câu dài cỡ ba, bốn chục thước. Đầu giường câu kia có buộc một cây sắt hay một
cục đá với mục đích khi mình quăng câu, cục đá sẽ kéo luồng câu thẳng ra và chìm
xuống nước theo lòng rạch.
Sau
khi móc mồi và khoanh tròn luồng câu vào cái sề sao cho các lưỡi câu không bị
rối với nhau, rồi người ta mới đứng nơi đầu cầu các bến sông và cầm cục đá mà
quăng giường câu ra giữa sông . Khi quăng câu như vậy rồi, người ta buộc đầu
giường câu còn lại vào cái sào dài và cắm xuống nước cho luồng câu chìm sát lòng
rạch và ngồi chờ cá ăn mồi. Khoảng chừng hút tàn điếu thuốc là bắt đầu nhổ cây
sào lên và phăng giường câu vào bờ để gỡ cá .
Còn
nếu ai có xuồng, người ta không quăng câu như vậy mà họ bơi xuồng thả câu sau
khi móc mồi như câu quăng. Bơi xuồng thả câu có cái tiện là câu ít bị rối, mình
có thể thả nhiều luồng câu và công việc mau lẹ, ít trở ngại.
Thường thường những năm 1940, 1950 các sông rạch miệt
Long Xuyên – Châu Đốc cá chốt giấy, cá chốt trâu, cá chốt chuột nhiều lắm, và
con nào con nấy vào mùa này chúng mập dữ lắm; mà nhứt là cá chốt giấy có con
bằng ngón chưn cái . Mỗi ngày, người ta thả câu lúc nước đứng lớn hoặc đứng
ròng, lúc nước chảy yếu cá dạn ăn và giường câu cũng ít bị đứt. Hồi đó, quăng
câu cá chốt cách này , mỗi ngày dân ruộng quăng vài ba giác là đủ cá ăn một
ngày. Loại cá chốt giấy kho tiêu bỏ thêm tóp mỡ thì ngon hết biết.
Dường như trẻ nhỏ ở nhà quê, hồi thời xa xưa ấy, đứa nào
cũng mê mùa quăng câu cá chốt này. Và ai đã từng sống ở nhà quê và được cha mẹ
cho đi học trường làng đều mê mùa câu quăng này và thường bị người lớn rầy là
tối ngày cứ mê giăng câu, hổng lo học hành gì ráo. Rầy thì rầy vậy, nhưng rồi
cũng lén lén kiếm mồi và quăng câu cá chốt, không bỏ được cái tật mê câu, mê
cá.
Vào
mùa nước tháng năm, tháng sáu, nước dưới sông đục ngừ, bọn trẻ nhỏ nhà quê cũng
thích cắm câu xúc tép. Nói là cắm câu, thật ra sắp nhỏ chỉ lấy nhánh trúc dài cỡ
tám tấc rồi buộc dợi dây bố vào với miếng mồi trùn buộc lòng thòng đầu kia nhợ
câu. Thế là khi nước lớn, cứ mon men theo mé sông, mé rạch mà cắm mấy chục cần
câu không lưỡi này và cầm cái rổ đi lòng vòng theo mấy cần câu cắm này, hễ thấy
nhợ câu nào lay động thì đưa cái rổ nhẹ xuống và xúc lên thật nhanh, thế nào
cũng được vài con tép rong, tép đất, tép bạc đang ngậm mồi. Cách cắm câu bắt tép
không có lưỡi câu này, thường trẻ nhỏ thích lắm, người lớn ít ai làm vì bận phải
lo những mùa câu khác bắt cá nhiều hơn.
Tháng bảy nước nhảy khỏi bờ và bò lần vô mé vườn, tràn
qua đám nưa, ngập theo các giồng mía làm cho trùn trong những giồng mía cao này
bắt đầu di chuyển lên gò cao. Theo lệ thường, nước bò tới đâu cá tép lội theo
tới đó mà dân quê thường nói với nhau “ở đâu có nước là có cá”, nên cá biết mấy
chỗ cao ráo nước tràn này có trùn và chúng mon men theo các giồng mía, giồng
khoai, giồng nưa ăn mồi trùn. Do thấy cá quậy đùng đùng theo những giồng mía lấp
ló nước, dân quê mới sắm câu cắm mà cắm dọc theo mấy chỗ cá ưa quậy ăn mồi này.
Thường thường cá ăn câu qua mấy luồng câu cắm này là cà trê trắng, cá trê vàng,
cá chạch, cá lóc, cá chốt , nhưng cá bắt được thường là cá còn nhỏ, còn cá lớn
thì không vô cạn kiếm mồi như vậy.
Có
người không cắm câu theo các giồng mía hoặc các bụi nưa ngập nước mà giăng câu
từng luồng, mỗi luồng khoảng năm mười lưỡi câu tóm vào giường câu cách nhau cỡ
một thước hoặc gần hơn một chút, nhưng đừng tóm hai lưỡi câu gần quá vì tóm câu
gần, khi luỡi này dình cá thì hai lưỡi câu gần hai bên cá không dám lại ăn
câu.
Mồi
cắm câu hoặc mồi câu giăng theo các vạt đất gò vào mùa nước mới bò vô vườn này
thường là mồi trùn vì đa phần cá lóc, cá trê vô đất gò này kiếm mồi vào lúc này
là chúng kiếm mồi trùn. Vả lại, mùa này trùn dồn lên gò nên cũng dễ đào. Hai
loại trùn mà cá ưa nhứt đó là trùn hổ và trùn huyềt. Trùn cơm chúng cũng thích
nhưng hổng bằng hai loại trùn kia; thêm nữa, trùn cơm không dai bằng hai loại
trùn kia nên bị cá rỉa mau hao mồi.
Vào
tháng 8, nước trên đồng nhiều rồi, dân quê mới thực sự bắt tay vào mùa giăng câu
bắt cá lóc, cá trê trên những cánh đồng lúa mùa . Vào mùa này, vì đồng lớn,
nước sâu, nên ít ai cắm câu bằng những cần câu cắm. Ngày xa xưa ấy người ta
giăng câu những luồng rất dài băng qua nhiều vạt đất với lung vũng đìa bàu đấy
cá lá cá . Những loại lưỡi câu thường dùng cho mùa giăng câu này là tùy theo
mình muốn bắt loại cá gì, Với cá lóc, người ta ưa dùng lưỡi câu đúc; với cá trê,
người ta dùng lưỡi câu dấu ó; với cá thác lác, cá trèn người ta dùng lưỡi câu
dấu ó có vọng câu nhỏ hơn cá trê.
Những người giăng câu chuyên nghiệp vào mùa này người
nào cũng sắm năm bảy trăm câu, có khi nhiều đến cà vài thiên câu là thường .
Người giăng câu gần thì chiều chống xuồng ra đồng bủa câu, móc mồi rồi cắm
xuồng ngủ chờ thăm câu giác nhứt, móc mồi lại và chờ chùa công phu hiệp nhứt là
cuốn câu gỡ cá và chống xuồng về nhà .
Người giăng câu xa thì cụ bị cà rèm, gạo thóc, nồi
niêu, củi đuốc, mắm muối, cà ràng, đèn dầu, mồi câu cho chuyến giăng câu một
tuần hoặc mười ngày mới về một lần. Riêng mồi câu họ cũng dự trù cho đủ số ngày
ở trên đồng giăng câu. Khi ở trên đồng như miệt Bình Di Bắc Nam, miệt Luỳnh
Quỳnh, miệt Tám Ngàn, miệt Đồng Tháp Mười…, họ ngày cắm xuồng ngũ, chiều bủa
câu, tối thăm một giác và thay mồi, sáng cuốn câu và cá giăng được, nếu sống thì
rộng trong xuồng, nếu cá ngột thì xẻ cá muối làm khô, làm mắm. Nếu cá dính câu
nhiều quá thì có xuồng ghe tới mua, thuận đâu bán đó cho nhẹ xuồng; nhưng ngày
trước, thường thường người ta rộng cá và bơi xuồng về nhà sau mỗi chuyến giăng
câu lâu như vậy, ít ai bán cá sống, trừ khi cá dính nhiều không còn chỗ để chứa
cá mới bán . Cá giăng câu mùa này thường là cá lóc, cá trê trắng, cá trê
vàng.
Giăng câu những đồng lớn vào mùa nước ngập lụt lút đầu
lút cổ này, thường hai ba xuồng giăng chung một cánh đồng và tìm chỗ đâu xuồng
chung với nhau để khi cần giúp đỡ nhau khi có dông mưa hoăc khi cần tiếp giúp.
Có điều cần lưu ý, kẻo nguy hiểm là trong những bó củi , bó lá dừa để sau lái
hoặc chót mũi xuồng rắn hổ đất thường lội lêu bêu không chỗ dựa, chúng thường
tấp vô xuồng và trốn trong mấy chỗ để củi và lá dừa này. Do vậy, mà người nào
giăng câu xa vào mùa này đều phải cẩn thận khi lấy củi và luôn luôn có mang theo
cục mật hội để phòng khi bị rắn chạm có để mà rút nọc độc cứu nguy lúc hiểm
nghèo giữa đồng nước bao la mông quạnh này.
Vào
tháng 9, tháng 10, nếu ai muốn giăng câu cá thác lác, cá trèn thì sắm câu mồi
tép, là loại lưỡi câu dấu ó có vọng câu nhỏ. Loài cá này ưa mồi tép và mùa này
tép cũng dễ kiếm. Sau này, khi bắt đầu có lúa thần nông, dân quê bày ra đặt lọp
tép và dân giăng câu mồi tép cũng ưa mùa tép đặt lọp này về làm mồi và khỏi mất
thì giờ đi xúc tép làm mồi.
Đến
khi nước gần giựt, dân quê giăng câu mồi cua. Vì mùa lúa đang trổ bông và rong
đuôi chồn và mã đề mọc dày bịt, nên muốn giăng câu mồi cua người ta phải dùng
lưỡi hái cắt cỏ dọn luồng . Một luồng câu như vậy thường thường bề ngang lọt
lòng chiếc xuồng bơi tới và chiều dài tùy theo luồng câu ngắn hoặc dài. Giăng
câu cách này là giăng ngầm, luồng câu bủa sát mặt đất ruộng, móc mồi cua còn
sống, do vậy mục đích dọn luồng là để mồi cua trống chỗ mà bò tới bò lui cho cá
dạn ăn câu.
Muốn cho con mồi sống lâu, người ta móc lưỡi câu vào
càng cua áp út, tránh móc lưỡi câu vào ngay yếm cua hoặc ngay hai con mắt của
con cua vì móc lưỡi câu vào hai nơi này làm con cua mau chết; hễ cua chết thì cá
lóc nó chê, hổng chịu ăn câu.
Cá
dính câu mồi cua thường là cá lóc rất lớn, có con cả ký lô, ít có con cá lóc nhỏ
nào mà mắc câu mồi cua . Thế mới hay cá lớn thường ăn ngầm, cá nhỏ ăn mồi nổi
như lúc giăng câu vào đầu mùa nước mới bò vô mấy đám mía, đám nưa.
Vào
mùa nước giựt, cũng là mùa sắp bắt đầu có gió bấc se lạnh. Mùa này cá rất ê hàm
răng, nên chúng thích ăn mồi cắt. Mồi cắt là những loại cá linh cắt ra làm hai,
hoặc người ta thụt mặt mấy óc bươu, óc lác lớn cắt ra làm sao cho vừa miếng mồi
. Còn các mùa khác thường thường dân quê ưa giăng câu mồi nhái, mồi chạy bao gồm
mồi cá linh, cá ròng ròng, cá sặt, cá rằm; nhưng thông dụng nhất vẫn là hai thứ
mồi mà cá trê, cá lóc cùng ưa là mồi nhái và mồi cá linh.
Khoảng tháng 11, tháng chạp, nước trên đồng cạn, lúa mùa
gần chín, người ta không bơi xuồng lên đồng được và cá cũng rộ xuống mé kinh, mé
rạch, lúc bấy giờ người ta xúm nhau bủa câu cặp theo các mé kinh, mé rạch đón
cá. Vì không lên đồng nhưng cá vẫn còn trên đồng theo các lung vũng, nên mùa này
dân quê mới sắm câu cắm mà cắm câu bắt cá lóc trên mấy miếng ruộng trũng với
nhiều lung vũng. Cá còn lại trên đồng vào mùa này là cá lóc lớn, nên cắm mồi cua
và mồi ốc là cá lóc ưa lắm. Nhiều con cá dính câu cả ký. Chúng ăn mồi xong rồi
quấn vô gốc rạ, nên ít khi bị sẩy lắm. Nếu ai siêng siêng cắm chừng 50 cần câu
thì cá ăn không hết.
Vì
cá xuống sông vào các tháng nước giựt, ai giăng câu dưới kinh rạch thì giăng,
còn dân chuyên câu cần thì cứ theo mấy gốc gáo, gốc bần, mấy đống chà sắm cần
câu mà câu cá rô đồng, cá rô biển, cá thác lác, cá chạch lấu . Mồi câu mùa này
rặt món tép đất vì các loài cá này ưa loại tép này hơn các loại mồi khác. Hồi
xưa nhiều con cá rô biển bà lớn gần bằng cái dĩa bàn . loại cá này làm món gì
cũng ngon, nhưng ngon nhứt là cặp gắp nướng thịt cá ngon thơm lắm. Còn cá chạch
lấu thì nướng càng ngon, nhưng kho cà ri cũng hết ý.
Nhắc món cá chạch lấu cặp gắp nướng lại nhớ anh Hai An
Phú có kể Ba anh hồi còn sống ráng tìm cá chạch lấu nướng cho các anh chị em
của anh Hai ăn, thiệt là cái tình cha thương con vô cùng cảm động!
Nhưng nói việc câu cá dưới sông bằng cần câu, không thể
không nhắc mùa câu cá mè vinh, cá dảnh, cá he tháng 5, tháng 6 âm lịch, khi nước
đục. Với cá dảnh, cá mè vinh thì câu bằng mồi rong đuôi chồn, loại rong mọc đầy
trong các miếng ruộng lúa mùa, dễ kiếm lắm . Còn mồi cá he thì có món lá cứt
quạ; cá he rất ưa . Thêm nữa, có món mồi hột gòn rang lên cho thơm, cá he cũng
mê lắm.
Hồi
đó, người ta bứt một nùi dây cứt quạ buộc lại thàng một ôm rồi treo nơi góc
những đống chà mà nhữ cá mè vinh, cá he, cá dảnh bu lại . Cho tới khi thấy chúng
bu đông và rúc rỉa làm lung lay, động đậy bó lá cứt quạ , người ta mới móc mồi
rong đuôi chồn, hột gòn rang, hoặc mồi lá cứt quạ bỏ xuống bên cạnh đó là cá
liền nhào lại nuốt mồi và mình chỉ cần sẵn sàng giựt câu lên là dình cá , mê
lắm!
Mùa
nước tháng chạp, tháng giêng thì cá dường như xuống sông gần hết; nếu có còn
chăng là cá lóc, cá trê, cá rô còn mắc kẹt trên các đìa bàu, lung vũng nhiều cỏ
lác mịt mù vì chúng mê cái chất rong bùn nơi đồng ruộng cũ nên chẳng muốn xuống
kinh rạch sông sâu nước chảy trôi xuôi về thành thị làm gì cho mệt . Do vậy,
những anh chàng cá lóc nào quên chốn lung vũng một thời và mê say sông nước thì
sẽ bị các cụ già mê câu nhắp, câu rê đón đường đón ngỏ nơi mấy đống chà, mấy gốc
cây lớn như gáo, bần bằng những cần câu dài, nhợ câu ngắn chừng vài ba thước với
mồi câu vào mùa này là cá rằm, cá rô đồng, cá rô biển bề ngang cỡ bằng hai ngón
tay.
Dân
câu vào mùa này cứ ngồi nơi mũi xuồng mà thả câu theo mấy chỗ này mỗi ngày kiếm
cỡ chừng năm, mười ký cá lóc như chơi . Còn nếu không có xuồng, người ta cứ cằm
cần câu đi trên mé rạch mà rê rê mấy lổ trống trong đống chà hoặc gốc cây cá
dựa, cũng dính cá lóc dữ lắm. Cá lóc mùa này no mồi, nên con nào con nầy béo
lắm, làm món gì cũng ngon, không cứ gì phải nói tới cá lóc là nướng trui, kho tộ
hay canh chua gì ráo trọi . Cá mập và ngon thì làm món gì cũng hấp dẫn dân nhà
quê như tụi tôi ráo trọi ….
Nhưng nhắc đến mùa câu cá mà không nhắc mùa câu cá rô
tháng tám, tháng chin thì chưa đủ . Mấy tháng này, trên những cánh đồng lúa mùa
nước cỏ trong leo lẻo. Chiếc xuồng chống rào rào trên cánh đồng lúa để lại một
lằn lườn xuồng vừa lướt qua là một bầy cá lòng tong, cá rô đồng ùa theo ăn những
phấn lúa rơi rớt đầy mặt nước . Dân quê vào mùa này thường bơi xuồng lên đồng
câu cá rô . Họ đi buổi sáng rồi chiều về có khi đầy nhóc khoang xuồng cá rô lớn
nhỏ, cá là cá . Mồi câu mùa này là các món trứng kiến vàng, gạch cua, cua ướm
lột, cào cào, châu chấu, váng nhện đóng trên các lá lúa là cá rô rất mê. Do câu
cá rô dễ ăn như vậy nên mùa tháng tám, tháng chín các chợ làng, chợ quê đầy cá
rô câu và cá sặt đặt lờ . Hồi trước cá tôm bắt dễ nên cá tôm cũng rẻ
mạt.
Nếu
ai không bơi xuồng lên đồng câu cá rô vì phải dan nắng tối ngày vào mùa tháng 8,
tháng 9 này, thì người ta ở nhà rang cám cho thơm rồi xách cái rổ xuống mé kinh,
mé rạch chỗ nào có bóng mát, và nhứt là không vướng cây cỏ chung quanh, thế rồi
lựa chỗ cho êm mà ngồi vụt cá lòng tong, cá mại, cá thiểu béo ngậy . Lưỡi câu
loại câu cá này uốn bằng cây kim may vá áo quần và lưỡi câu không có ngạnh, vọng
câu nhỏ, mũi câu ngắn . Mồi câu là một hột cườm màu đỏ hoặc vàng xỏ qua lưỡi câu
và dùng sợi chỉ buộc chận lai cho hột cườnm đừng vuột ra ngoài.
Sau
khi bỏ cám rang trôi trên mặt nước, cá nghe mùi thơm của cám rang và bu lại đầy
nhóc . Người ngồi câu không phải chờ cá rỉa mồi mà tay cầm cần câu cứ vụt xuống
kéo lên lia lịa, liền tay, đều nhịp và cá thấy hột cườm tưởng miếng mồi, chúng
nuốt vội và mắc vào lưỡi câu . Khi cá dính vậy, người ta cũng không phải ngừng
lại mà gỡ cá ; họ chỉ cần hạ nhẹ cần câu xuống cái rổ để sẵn vừa với tầm của
ngọn cần câu là cá dính câu tự động sứt ra và lại tiếp tục vụt cần câu liên tục
nữa cho tới khi cá bớt dính, người ta tìm thêm nền câu mới và câu tiếp tục cho
tới khi nào muốn nghỉ thì nghỉ.
Nhớ
những năm 1945, tản cư về quê ngoại trên Mặc Cần Dưng, ngày nào vào mùa này má
tôi cũng câu cá lóng tong, cá mại, cá thiểu theo cách câu vụt này. Những năm
tháng ấy vừa loạn lạc, vừa đồ khổ nhưng sông rạch nhiều cá cũng làm nguôi ngoai
nỗi lo của người lớn khi phải chạy giặc và trẻ con chúng tôi thì đâu biết gì vì
còn nhỏ quá nên chỉ mê có cá . Nhớ lại những ngày xa xưa ấy mà thương cha mẹ
biết dường nào vào những ngày bồng chống con cái tản cư chạy loạn … Thế mà thời
gian cũng qua mau, có tới hơn sáu mươi mấy năm dài!
Hồi
nhỏ, vào những năm tản cư về Mặc Cần Dưng, năm nào vào mùa nước lên, đường làng
bị ngập, nước sông tràn vô đồng ào ào . Nhà ông ngoại tôi là nhà sàn cao cỡ một
thước mà sàn nhà vẫn lé đé nước . Nước dưới sàn nhà trong leo lẻo nên cá trê
trắng lội thành từng bầy, từng bầy núp theo mấy tảng đá làm nống nhà. Mấy ông
anh con của cậu tôi thường ngồi trên nhà khoét cái lổ câu cá trê trắng bằng mồi
trùn ngay trong nhà mà không phải bơi xuồng đi đâu hết. Cá trê dính nhiều lắm vì
chúng rất dạn ăn câu.
Những năm tháng đó má tôi cũng thích câu cá ba sa, cá
sát, cá vồ bằng mồi con gián cánh . Chiều chiều gần chạng vạng tối má tôi bơi
chiếc xuồng xuống bến sông hoặc ngay trong sân chỗ góc nhà sau có một cái lẫm
chứa lúa, một tay má tôi cầm cần câu, tay kia cầm cái mủng vùa (còn gọi “miểng
vùa”) đầy nước và rót nước chảy xuống để nhử cá bu lại. Khi nghe mùi hôi của mồi
con gián cánh, chúng xúm nhau giành mồi dính câu giựt hổng kịp.
Nhắc tới cá ba sa, cá vồ mê mồi gián cánh, tôi mới nhớ
khoảng năm 1957, tôi mới biết thêm cách câu cá lăng bằng mồi thuốc dưới dạ cầu
Nguyễn Trung Trực, cua Lò Thiêu, Long Xuyên, mà có lần tôi có nhắc qua cá nhớ
đồng, nhớ chà, nhớ gốc trong mùa quậy đìa. Mồi thuốc câu cá lăng rất đơn giản mà
tôi biết chắc là nếu dùng mồi này câu được con cá giựt lên xuồng, rồi chặt đuôi
thả xuống sông trở lại, một hồi thế nào nó cũng dính câu một lần nữa vì chúng mê
mồi . Nó gồm cá linh làm cho sạch, thái lấy hai miếng thịt hai bên lưng bỏ chung
với thịt ba rọi xắt bằng ngón tay sao cho vừa miếng mồi. Tất cá thịt cá linh và
thịt heo này đem ủ trong một cai hủ cải tù xoại với vài món thuốc bắc gồm đại
hồi, tiểu hồi, cam thảo . Mồi ủ chừng năm, bảy ngày là đem ra câu cá lăng được
rồi. Sau này, người ta đặt lọp tép, lọp cá chạch cũng dùng ba món thuốc bắc này
trộn với xác mắm cá linh sau khi lượt lấy nước mắm để làm mồi đặt lọp tép, cá
chạch rất đắc ý.
Nhơn nhắc cá lăng ưa mồi thuốc, hồi thời tản cư vừa trở
về làng quê cũ sau hiệp định Genève 1954, những con rạch vùng quê làng Tân Bình
thuộc Lấp Vò của tôi còn sầm uất lắm, nên cá lăng, cá kết, cá leo trên các vùng
sông rạch này nhiều vô số kể . Vào thuở xa xưa ấy, dân quê ưa cắm câu trên các
bè chuối dùng làm phao cho cần câu cắm không bị chìm tại các vàm mương nơi cá
lăng, cá kết, cá leo, cá trê trắng tìm đường lên ruộng hoặc những chỗ vắng vẻ
nước không chảy mạnh trên các con rạch này. Những giống cá loại này vào thời sau
1954, chúng rất ưa mồi cá sặt, cá rằm, cá rô nhỏ . Mỗi chiều cắm chừng vài chục
cần câu cắm như vậy, khuya đi thăm câu thế nào cũng có trên chục con cá dính
câu, mà con nào con nấy nặng cả nửa ký trở lên chứ ít khi dính cá nhỏ . Thăm câu
và móc mồi lại những cần câu nào bị sứt mồi rồi bỏ đó, sáng ra đi cuốn câu cũng
kiếm thêm cá lăng, cá leo, cá kết khá bộn…
Về
mùa câu cá, cũng còn tùy nghi theo địa thế lung vũng mà dân quê chế thêm ra món
thả câu bằng phao . Thả câu cách này rất đơn giản, không như phải bủa câu thành
luồng và cũng không cần giường câu phải dài mà chỉ cần một cái phao câu làm bằng
những ống sậy dài chừng bốn, năm tấc . Ngay giữa ống sậy này người ta tóm một
nhợ câu dài chừng tám tấc với lưỡi câu đúc hoặc câu dấu ó ở cuối nhợ câu . Muốn
thả câu, người ta móc mồi trùn, hoặc mồi cắt rồi mới căng nhợ câu gài vào hai
đầu ống sậy này cho gọn để các luỡi câu khỏi dính vào nhau và bị rối nùi . Xong
đâu đấy, tất cả các ống sậy có câu, có mồi được đựng trong một cái túi mang trên
vai hoặc sắp xếp sao cho gọn bỏ trong khoang xuồng và rồi cứ theo các lung vũng
có cá mà vạch lổ vẹt cỏ cho trống, rồi lấy từng ống sậy và gỡ lưỡi câu ra và cẩn
thận đặt lưỡi câu xuống cái vùng mình vừa dọn trống đó . Thế là xong một nền
câu, rồi tiếp tục đi tìm cái nền mới mà thả thêm các ống câu còn
lại.
Cá
ăn câu thả này ít khi bị sẩy vì khi nuốt mồi xong chúng biết mình dính câu là y
như rằng bản năng sinh tồn buộc cá cắn câu thườngg quấn vô gốc cỏ mà tìm cách
chạy thoát, nhưng càng quấn vô gốc cỏ chừng nào cá càng bị vướng, bị kẹt. Thả
câu cách này vì giống như câu ngầm nên cá dính câu thả là cá trê vàng, cá trê
trắng và cá lóc . Nhắc cách thả câu này, không khỏi nhớ lại những năm tháng
xuống U Minh phá rừng trồng khóm, bứt dây choại, ngày nào anh em tụi tôi cũng
vừa lọt vô rừng xong là lo kiếm mấy hố bom, mương vũng thả vài chục ống câu thả
này với mồi trùn móc sẵn. Vậy mà khi gom lại sau một ngày ở trong rừng nghe chim
kêu vượn hú tụi tôi đứa nào cũng có vài ký cá rô, cá trê, cá lóc miệt U Minh đen
thui đen thít, mập lắm….
Mùa
câu cá, mùa giăng câu sau hơn sáu, bảy mươi năm qua mà hôm nay ngồi nhắc lại,
không những đó là đời sống của các cư dân vùng lúa mùa một thời mà còn là những
kỷ niệm khó phai nhòa trong tâm trí những người nhà quê già như các bạn và tôi
có một thời sanh ra và lớn lên nơi các làng quê vùng lúa mùa . Chúng ta nhớ lại
những mùa màng ngày cũ là nhớ lại tuổi ấu thơ của mình, nhớ về những năm tháng
loạn ly nhưng còn chút thanh bình, nhớ về những buổi chiều thong dong trên chiếc
xuồng câu với nhiều hy vọng được mùa cá , mùa câu ; nhớ về những buổi sáng chống
xuồng câu về mà lòng háo hức niềm vui cá lội đầy khoang xuồng, nhớ về những đêm
trăng sáng vằng vặc hát hò nghêu ngao trên đồng nước và cũng nhớ về những mùa
gió chướng nhổ sào làm cho xuồng câu trôi theo gió ào ào. Màu thời gian hiện
diện trên đá, trên rêu, trên những nền nhà ngày cũ như dấu tích những ngày qua
của những đời người và màu thời gian cũng nhuộm đậm trong tâm trí mỗi người già
nhà quê chúng ta vào những ngày mùa giăng câu bắt cá ngày nào, khó phôi pha dữ
lắm . Các thế hệ trẻ có hiểu và thông cảm cùng chăng cho những hồi ức của những
người nhà quê già một thời như tôi và bạn, đang có mặt hôm nay…
Lấp Vò, ngày 01-12-
2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét