Con đường
cũ
(Phần 14)
LƯU NHƠN NGHĨA
Trở lại ngả Tư đường đi Châu Đốc, ngày
trước là bến xe đò, hãng xe Tân Thành của ý Hía, họ Giang. Xe Tân Thành luôn
luôn lấy tài nhứt, chạy trước, hốt hết khách. Ai cũng muốn đi xe tài nhứt, giờ
buôn bán, đi sớm ra Châu Đốc bổ hàng rồi về sớm. Năm 1950 về trước, có chuyến
xe nhỏ, loại xe con cóc, chở được khoảng sáu người hành khách, thời đó kêu bằng
" bộ hiền". Hãng xe
Tân Thành độc quyền đến tháng 4, năm 1975.
Bên
phải ngã tư là tiệm chụp hình Phương Tường, sát bên tiệm hớt tóc. Sau mở thêm
tiệm uốn tóc. Uốn tóc xong, vào tiệm
chụp pose hình treo tường.Trong tủ kiến chưng hình người đẹp, trong đó
có hình cô hoa hậu Battambang cầm cây vợt vũ cầu, đẹp như hoàng hậu Thái lan
thời trẻ. Đối diện là tiệm may và bàn billard, sau là rạp hát. Đi về hướng Châu
Đốc, sẽ gặp Thành lính Tây, chỗ nầy xưa, năm 1946-48, có hai
ông quan một, một ông
tên Đức, một ông tên Trọng, có câu “đức trọng quỷ thần kinh “. Không biết quỷ
thần kinh không, nhưng
chủ tiệm thì kinh ông lắm. Ông bắt người khảo của, tra tấn bắt nạn nhân khai,
rồi bắn tiếng cho chuộc.Thành Tây sau nầy là Chi Khu, rồi bị phá, cất lại làm cơ
sở đảng bộ.
Trước
mặt thành là Chùa Trên, có hồ sen (ngày nay đã cạn nước). Tượng Phật ngồi im lìm
nhìn sen nở từ thời tôi còn nhỏ. Chùa cất cuối thế kỹ 19, cây ván bắt đầu mục.
Khu Chùa có trường Tiểu học Việt Miên, có cây Nam vồ che mát. Kế bên Chi Khu cũ
là nhà thương, thầy Ba Nhàn làm việc từ thời Tây. Dọc theo là xóm Miên hai bên
đường. Đi một đổi là căn nhà xưa của ông Đốc Phủ Cui, làm thành lính Bảo An,
lính gốc Nùng Thủ tướng Diệm đưa vô, đặc biệt có thiếu tá Sinh, thiếu úy Long,
thiếu úy Quang. Ba ông nầy rất hiền. Ông Long sau thăng thiếu tá, tử trận hình
như ở dốc Nhà Bàng, nghe nói lúc đi hành quân, ông quên mang theo cái nanh heo
rừng hộ mạng. Ông Quang lên trung uý, già, mất ở Sarrebourg ( Pháp ) thọ 102
tuổi. Ông không biết chữ, học làm thợ bạc, đi lính, làm bếp cho Pháp, từng dự
chiến tranh Âu châu, về Hà Nội làm Hiến binh, di cư vô Nam. Đại đội Bảo An người
Nùng sau nầy đi đâu hết.
Tiếp
tục đi, sẽ gặp cầu Cây Me, xứ Miên ưa trồng me, cầu sắt, qua khỏi cầu, bên trái
có nhà máy xay lúa rồi tới chợ Cây Me, không có gì đặc biệt, chợ nhóm buổi sáng.
Ngay tại chợ, có đường tẽ vô Ba Chúc. Đi thẳng sẽ qua ngang núi Nam Vi (Nam Quy
?). Núi thấp cỏ xanh, chùa Miên rải rác. Ngày nay, có nghĩa địa liệt sĩ mới.
Tới dốc Tà Đéc, dốc khá cao đổ từ Tri Tôn ra, khoảng năm
1950-54, xe đò hay bị cướp tại dốc nầy. Bọn cướp lấy cây chận ngang đường khoảng
giữa dốc, xe đang xuống dốc không thể quay đầu, bọ cướp ào ra cướp bóc. Có một
lần, xe đang đổ dốc, thấy có khúc cây nằm vắt ngang đường, bộ hiền ai cũng lo
dấu tiền. Lúc xe tới gần, họ thấy con rắn bò ngang đường như khúc
cây, đầu cất
cao, thân mình rắn bằng cái thùng thiếc( ?).
"Mùa hạn,
ông Mây xuống bưng uống nước," Khúc đường nầy đổ bao nhiêu máu lính cũng như
dân, mìn nổ, súng trên núi bắn xuống, đấp mô. Sáng đi, chiều về, mới biết mình
còn sống, năm nầy qua năm khác. Nghề xe, bạn hàng, không đi thì lấy gì ăn. Sống
chết có số mà, số nghèo chết nhiều hơn số giàu. Xe chạy dọc theo núi tới Tà Đet,
núi Bà Đội Om. Bà đội om đứng đó chi vậy Bà ? Sao Bà không ngăn giùm cho máu bớt
đổ, cho dân
sống đi làm ăn nuôi con?. Bà đứng trong núi, không ai cúng kiến. Bên kia đường
là chùa Bà nước Hẹ, hương khói mãn năm, heo quay, vịt quay. Bãi đất trước chùa
Bà nước Hẹ, không nhớ năm nào, có năm xác người nằm đó. Chó ăn xác, chó chết,
năm cái xác nằm thúi rửa ra, cỏ không mọc lâu lắm, sau đó, chổ đó cỏ mọc xanh
um.
Cũng
tại chân núi Bà Đội Om nầy, Bà chứng kiến ngày tàn của bảy Đởm. Bảy Đởm lúc đó
là Thiếu tá, tiểu
đoàn trưởng Địa phương quân, ít ai dám nhìn thẳng vào mặt ông. Nghe nói Bảy
Đởm có bùa, " vô đinh" (đinh trong người, khi miểng đạn chạm vào chổ
nào, đinh sẽ
che chổ đó). Ngày đó, Bảy Đởm bị phục kích khi đi mở đường cho xe chở đạn của
Trung đoàn 16 tiếp tế cho Pháo binh, Miểng đạn văng vào đá núi trúng mắt ông.
Trước khi chết, ông rống ồ ồ. Huyền thoại về Bảy Đởm hết từ đó. Ngày xưa, Bảy
Đởm là tướng cướp khét tiếng ngang tàng, nhưng khi chơi đá gà, dù ăn hay thua,
ông chơi sòng phẳng, không cho lính giựt dọc ai. Cầu Tà Đét ngay tại dốc, bắt
ngang con suối sâu, nước từ trên núi Cấm đổ xuống qua những tảng đá, mạnh như
thác. Xe ngày trước yếu, đổ dốc cầu, có khi bộ hiền phải xuống. Một chiều mưa,
về quê, tới đây đã tối, cảnh núi đồi mờ mịt, nghe nước dưới suối sâu đổ dồn, nao
lòng. Ngày nay suối cạn không còn nước, có cây cầu đúc mới, tìm lại không gặp
mảnh hồn xưa. Khe suối cầu Tà Đét mất rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét