Con đường
cũ (Phần 15)
LƯU NHƠN NGHĨA
Con đường chạy dọc theo núi Cấm. Núi Cấm là kho thuốc Nam, trước khi có thuốc
Tây, các đạo sĩ hái lá cây, củ có dược chất đặc biệt làm thuốc Nam, nổi tiếng là
củ Hà thủ ô, giống củ khoai mì, có công hiệu làm đen tóc. Xưa có nhiều rắn lớn,
bò rừng, nai, mang, khỉ, lọ nồi, cù lần, cọp, chim chóc . .. Nay tuyệt chủng
rồi. Không biết sao gọi là núi Cấm, người nói vầy, người nói khác. Nhiều huyền
thoại về núi Cấm. Người theo tân học cho là mê tín. Một trăm năm
trước, nếu lạc vào đây, vùng còn hoang địa, bơ vơ, khách mới cảm được cái cảm
giác run sợ trước rặng núi đen sẩm ban đêm. Trên sườn núi, thỉnh thoảng có ngôi
chùa Miên, tháp cổ
nép lẫn trong đám cây xanh um. Núi cho thuốc, cho trái cây, cho thịt thú rừng,
cho cây gỗ mà người đành đoạn phá núi không tiếc thương. Nhà ngủ mọc lên trên
núi, chân núi, " Chào mừng quý khách ", Thần Tiên chịu hết nổi, đành bỏ về
trời.
Khoảng năm 1960,Trung tâm huấn luyện Chi Lăng được thành lập, còn có
tên là Sài gòn mới. Dân tứ xứ đến cất nhà định cư, buôn bán, cung cấp các dịch
vụ cho trung tâm. Trung tâm nằm dưới chân núi Cấm, vừa tầm cho pháo binh địch
trên núi tác xạ. Dọc theo đường, các xóm nhà Miên làm ruộng, ruộng trên (phía
bên chân núi), ruộng dưới bao la, chạy tới bờ sông Hậu giang. Ban đêm, khói un
muổi thơm mùi phân bò quyện trong không khí từ những căn nhà sàn, thanh bình, ấm
cúng. Ai sinh ra và lớn lên ở đây, đi xa
chắc nhớ lắm. Mấy năm trước, trời chạng vạng tối, tôi đứng bên xóm nhà lá, hít
mùi khói, tiếng trẻ chơi gần đống rơm, bò trong chuồng nhơi cỏ, tôi quyến luyến
không muốn rời xóm nầy.
Đến
Phum Chanh (xóm người Tàu ?), trên đường tới cầu Bưng Tiền (?), có cái “lô-cốt”
(blockhaus = công sự phòng thủ) thời Tây còn sót lại. Ngày nay, không còn dấu
vết cầu, con kinh mới đào, có mấy chiếc ghe đậu đầu kinh. Tiếp tục đến núi ông
Két. Dốc cao, nghiêng. Xe hàng hiệu Renault thời 1954, thường cho hành khách
xuống, rồi chạy như bò lên dốc.
Hai bên triền núi, dân làng trồng
mít, dưa hấu, khoai mì, củ sắn, mãng cầu dai (bạn hàng tới mua, lựa trái lớn,
chở lên Sai gòn bán cho vựa trái cây, dân địa phương ăn trái nhỏ). Củ sắn
vùng nầy nhờ đất cát, nhiều bột và ngọt.
Năm
1956, lúc xe hàng đậu chở mãng cầu, trưa nắng, thấy có chị gánh củ sắn trên núi
đi xuống, áo quần
rách rưới, đầu đội nón lá dầy. Trời nắng nóng, mà chị lại mặc đồ đen. Tôi đang
khát nước, hỏi mua, chị trả lời, củ sắn không bán, " ăn lấy ít củ ăn đi ". Tôi
còn nhớ tròn câu chị nói. Tôi lấy một củ ăn, cầm thêm ai củ, tự nhiên như đã trả
tiền rồi, không biết lời cám ơn. Bây giờ, tôi còn giữ được câu nói và hình ảnh
chị gánh củ sắn mặc áo đen lam lũ đi trong cơn nắng cháy da trên dốc Nhà Bàng,
dưới chân núi ông Két. Chị cực khổ gánh củ sắn, không học cao, chắc phải nghèo
lắm, không nghèo sao đi gánh củ sắn? Gánh từ trên sườn núi ra chợ Nhà Bàng đâu
có gần. Ăn 1 củ đã hết khát, còn cầm thêm 2 củ. Tôi có máu tham, chị gánh củ sắn
có tấm lòng người chân chất, cao thượng, biểu hiện bằng hành động chứ không
bẵng lời nói. Tôi tự tha thứ cho mình. Tôi mới khám phá được phần nào "tấm lòng"
người dân vùng nầy, ngay gần quê tôi mà tôi không nhận ra, dù tôi từng đọc bao
nhiêu sách về vùng Thất Sơn.
Năm
2001, hết giặc, lần đầu tiên đi quanh vùng Thất Sơn, trước năm 1975, đây là vùng
mất an ninh. Đi qua Ba Chúc, rồi vòng qua sau núi Két. Sau núi Két, một vùng đất
thiêng của những người đầu tiên khai sơn phá thạch đúng nghĩa. Đức Phật Thầy Tây
An, ông Đình Tây, Bùi Thiềng Tăng chủ, ao nuôi ông Năm Chèo, nhà thờ Ngũ Bối bắt
ông Năm Chèo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét