Con đường
cũ
(Phần 13) Vài nhân
vật đáng nhớ
LƯU NHƠN NGHĨA
Khoảng năm 1947-48, chợ Xà Tón còn trống trải, buôn bán chỉ buổi sáng. Thời bình
tịnh, có vài nhân vật đáng nhớ, thuộc mọi giới sang cũng như nghèo.
Buổi trưa, ngoài chợ trông bắt dầu bằng màn lotto. Không nhớ ai
làm cái, nhưng có
chú “Sáu Nhỏ” kêu lotto có vần có điệu. Mỗi bàn lotto vì vậy lâu lắm. Chú Sáu
Nhỏ, mặt giống hình trong cuốn “Thơ Sáu Nhỏ” thông dụng thời đó. Chú có tài kéo
dài, thay đổi câu thơ, làm người chờ con số sốt ruột, Khi chú kêu “ Con Hai nó
thương con Ba”, người chờ con số 23, nóng nãy la “kinh”, chú tiếp tục “thì ra
là con mấy”, “kinh sộ”, không ai đoán được con số trừ khi chính chú kêu. Có khi
chú kêu như dỡn, cầm con số, quay lại hỏi người ngồi bên cạnh, “tháng nầy là
tháng mấy anh ?”, trả lời “tháng 2”. Chú tiếp tục kêu, "Tháng nầy là tháng 2,
bước qua là tháng 3, mưa sa lác đác, cám thương mấy cô chưa chồng, lạnh cong
xương sống, lạnh cóng xương sườn, lạnh nằm trên giường, lạnh lăn xuống đất, hai
tay quơ chiếu, hai chưn quơ mền, đấp lại vần còn lạnh run. Cô nào còn lạnh, mượn
Sáu Nhỏ ôm giùm không tính tiền công, là con số ớ ba mươi con năm". Sau đó chú
mới lên giọng “số 35” Khi biết có người nôn nóng chờ 1 con số, chú trêu chọc
người đợi bằng cách kéo dài, “con gì nó ra đây, con gì nó ra đây là con số mấy
?”, chú lại có khả năng lướt qua vần khác.
Mỗi bàn lotto khá lâu, người chơi vui vẻ chờ đợi, cốt vui hơn
ăn thua. Sau nầy vắng chú Sáu Nhỏ, người chơi lotto mất cái say sưa hào hứng vào
buổi xế trưa hanh nắng.
Trẻ già gầy ốm, bụng lớn da vàng, vì tại ăn hàng, sanh ra cam tích, teo đầu teo
đít, bụng nổi gân xanh ...
Kế là bà Cà Ngul, người Miên, khá già không còn răng, không có
con cháu. Bà “ẳm em”, ai có con nhỏ, bận buôn bán, thì bà ẳm con họ đi chơi,
được ăn cơm. Tôi nhớ bà ẳm đứa bé chạy theo đám ma của chính mẹ đứa bé đó kêu
“má má”. Chỉ vậy thôi, không có gì nói về bà già tầm thường nầy mà sao tôi nhớ
thương bà vô cùng.
Các nhân vật nổi bật, khác tôi đã nhắc trong cuốn Như cánh
chuồn chuồn.
Năm 1953. Có nhân vật xứ khác tới. Tên nầy không biết trẻ hay
già. Hắn vào tiệm ông già tôi mua cưa, bào, đinh, dây chì v.v.. Mua xong (chưa
trả tiền), hắn gởi hàng tại tiệm, nói chờ mua các món khác cho đủ rồi sẽ trả
tiền và chở đi một lượt. Hắn lại đến các tiệm khác cũng mua và gởi hàng như
trước. Hắn lại mang tới tiệm tôi gởi mấy bao hàng mua ở tiệm khác, có vẻ nặng
lắm, hắn cũng mang mấy bao hàng khác tới gởi các tiệm hắn đã mua hàng sau cùng,
hắn kêu xe lôi quen tới nhà tôi chở hàng hắn mua đi trước, chờ chở xong những
bao hàng hắn mua ở chổ khác mang tới gởi, thì trả tiền luôn. Thấy hắn còn gởi
mấy bao hàng, ai cũng tin, dù sao vẫn còn mấy bao hàng còn chưa chở đi. Hắn chở
liền đồ đạc mua ở mấy tiệm khác rồi đi luôn, không trở lại. Chờ tới trưa, không
thấy hắn trở lại, mở mấy bao hàng hóa hắn gởi, thấy chỉ có giẻ vụng và đất đá.
Hỏi anh xe lôi, anh nói tên bợm đã chở bằng xuồng đi lâu rồi, hắn còn dặn anh xe
lôi chiều lại chở thêm, hắn quịt luôn tiền công anh xe lôi.
Chiều đó, mới biết có nhiều tiệm bị gạt đúng một kiểu, tiệm
nào cũng có vài bao giẻ rách. Ông già tôi tức lồng lộng, chửi bà già tôi ngu,
rôì chửi luôn tôi cũng giòng ngu. Ông hăm he, nếu tên bợm trở lại, ông chém hắn
đứt đầu. Khi nghe các tiệm khác cũng bị gạt, ổng tự an ủi, ừ, ai mà biết
được.
Suốt từ năm 1949 tới về sau, có Bà cụt chưn ngự trị ngoài chợ khá lâu. Thời đó
bà còn trẻ, mà hình như tôi thấy bà vẫn vậy, không thấy già, người Miên, chuyên
làm mướn vụng vặt, ai kêu làm gì thì làm nấy, xách nước tưới rau ngoài chợ, thêm
nghề ăn trộm, lấy được cái gì thì lấy. Mọi người quen với tánh ăn cắp vặt của
bà. Vậy mà cũng sống. Sau bà ăn cắp gì đó, bị người ta chặt đứt phân nửa bàn
chưn, mang tên " bà cụt " tới giờ.
Bà cụt chưn hát tiếng Miên hay lắm, nhứt là hát đối Miên, bà nói
tiếng Việt rất rành.
Thời 1952, buổi trưa, bà gặp một địch thủ hát đối ngang ngữa. Lúc
đó bà còn trẻ, giọng lảnh lót, vừa múa vừa hát. Bà nổi máu nghệ sĩ, hát và múa
thách đố. Một ông trạc tuổi bà,nổi hứng hát đối với bà. Ông vừa hát vừa phùng
mang trợn mắt, xàng qua múa lại như theo điệu nhạc ngũ âm, hát trả lời những câu
bà hát. Cuộc đối đáp khá lâu. Dân chợ nín khe, theo dỏi, vì loại tiếng Miên hát
đối ở trình độ văn chương, dân Việt chỉ biết tiếng Miên thông dụng hàng ngày.
Bổng hai người ngưng hát, bà ré lên cười, ông nọ tiu nghỉu lẻn đi
mất. Bà cười nhạo bằng tiếng Việt cho mọi người nghe, " Ê, đàn ông mà hát thua
đền bà con gái ê".
Một nghệ sĩ không gặp thời. Về già, mỗi sáng, bà tập tểnh xách
nước cho mấy người bán rau tưới cho rau tươi để đổi lấy miếng cơm, ăn xin thì
không ai cho. Mãi tới giờ, chưa ai biết tên thật bà nghệ sĩ nầy.
Ông quét chợ trước 1975, ông Tám quét chợ, thứ Tám, thêm chữ quét
chợ, tên nghề ông, không ai lầm lẫn.
Ông làm
việc dơ bẩn cho sạch cuộc đời. Buổi chiều, vào mùa mưa lạnh, có ai thương ông
đâu. Ông đẩy chiếc xe cút kít, rác chợ đẩy ra ruộng đổ. Có khi làm cực, thấy bà
vợ đứng nói chuyện, ông đấm bà bịch bịch, bà bỏ chạy xa, cười nói " Tui có học
gồng ". Ông có đứa con gái khật khùng, nghèo lại xấu, sống lang thang, có con
không cha và đứa con trai, nghe nói bỏ xứ đi, cũng theo nghề quét
chợ.
Mười sáu viên xôi nước. Trưa trưa, chợ Xà Tón có bán các món quà như chuối
nướng, bánh chè. Các món ngon thời đó, chỉ có vài người biết làm, như xưng xa
hột lựu, xôi nước. Một chú nông dân, nhìn thấy gánh chè xôi nước, thèm lắm, bất
giác nói,” tôi dư sức ăn bốn chục viên xôi nước “, dì bán chè nói, “nếu ông ăn
hết bốn chục viên, tôi không lấy tiền, nhưng nếu ông ăn không hết, tôi chỉ tính
tiền mấy viên ông ăn thôi”. Hai bên đồng ý và phân chứng với người chung quanh.
Chú hăm hở, mắc ngay lổi đầu tiên là ăn mau quá, ăn không kịp thở. Người bán
cũng sợ thua, xanh mặt. Đến viên thứ mười sáu, chú thở hổn hển, “ cho tôi miếng
nước, mắc nghẹn”. Gặp chú ai cũng nhắc mười sáu viên xôi nước.
Đốc phủ
Cui
Thời
nhỏ, tôi có nghe nhắc ông Đốc phủ Cui, chắc ông người Miên, dân xứ khác tới,
hình như ông ở Châu Đốc, ngạch Đốc Phủ. Xưa Tri Tôn còn gọi là Phủ, chớ không
phải Quận. Hồi nhỏ, tôi thấy căn phố cháy trước hãng nước mắm, ngày nay đúng vào
vị trí nhà Lễ, con củ năm Từ Thiệu. Nghe nói đó là nhà ông Phủ Tây.
Theo lời
củ Chau Sey La (thầy Ký, năm nay 2006, chừng 89 tuổi) kể lại, ông Đốc Phủ Cui
là chuyên viên họa đồ, hay đo đạc gì đó, (Đốc công Trường tiền ?). Ông được
Pháp giao việc phóng con đường Châu Đốc -Tri Tôn. Có chủ đồn điền Pháp muốn ông
phóng đường ngang đồn điền ông ta để tiện việc chuyên chở sản phẩm. Nhưng ông
Đốc Phủ Cương quyết phóng đường theo ý mình, ngược lại ý kiến của chủ đồn điền
Pháp, không biết lý do, có thể ông tỏ ra không vị nễ người Pháp, vì ông muốn
chứng tỏ quyền hành trong tay ông.
Thờì
gian cuối thế kỷ 19 hay đầu thế kỹ 20, ông thuộc hạng rất giỏi, Pháp còn chưa đủ
chuyên viên cao cấp, nên họ mới giao cho ông.
Con
đường chạy từ Châu đốc thẳng vào hông núi Sam, phải quẹo phải, chạy dọc hông núi
Sam vào Nhà Bàng. Hai bên đường lúc đó chưa phải là ruộng lúa phì nhiêu như ngày
nay.
Từ
Nhà Bàng đi ngang núi Két, ông phải xẻ con đường nghiêng (ngày nay đã đuợc đấp
lại bằng phẳng). Con đường nầy chạy trong thung lũng núi Két, hai bên
là núi. Mùa mưa nước từ trên núi đổ, cát chài xuống hư hỏng hàng năm, xe chạy
bị lún hoặc sụp dốc lại quá cao so với mã lực xe thời đó ( 1900-1954 ). Xe
Renault mới, chở hàng, tốc độ tối đa không quá 70km/giờ, chạy nghiêng rất sợ,
thường nếu chở nặng, hành khách phải xuống bớt, cho xe bò lên dốc.
Xa
xa là rặng núi Dài, núi nầy mới được khai phá nhờ máy móc.
Đoạn
từ Vĩnh Trung (xưa gọi là Phnum Chanh = xóm người Tàu ? ) đến Tà Đét (An Hão)
tương đối bằng, dễ chạy.
Bắt
đầu từ Trung tâm Chi Lăng ( Sài gòn mới, ai đặt tên cho kêu vậy ), bên phải
hướng về Tri Tôn là núi Cấm. Núi Cấm cao, xưa ít người ở, nhiều thú dữ, hiểm
trở, triền núi dốc đứng, nhiều đá, khó lên.
Đoạn
Chi Lăng tới Tà Đét hai bên cũng núi, núi Bà Đội Om, dốc Bà Đội cao, xe cũ không
qua nổi với dốc nầy. Kế tiếp là núi Nam Vi thẳng vô Tri Tôn.
Ngày
nay, bàn chơi, khi trà dư tửu hậu. Từ năm 1945, dốc Nhà Bàng bao nhiêu máu
đổ.
Đường
xấu, hẹp, dù mùa khô, dốc lại cao (dốc nào đứng bằng dốc Nhà Bàng). Xe chạy như
rùa bò lên dốc. Đoạn dường nầy bị đấp mô đều đều, chưa kể vừa tầm đạn trên núi
bắn xuống.
Đoạn
dốc Bà Đội, cũng mô, cũng mìn bẩy, súng từ trên núi Bà Đội vải xuống.
Nếu
ông Đốc Phủ Cui phóng đường, né xa núi chừng vài cây số, nghĩa là phóng đường
ngoài ruộng, đở tốn kém tiền phá núi, lại mau hư vì nước mưa soi mòn.
Thời
chiến tranh, bao nhiêu máu hành khách xe đò, xe hàng. Buổi sáng đi, buổi chiều
về tới nhà mới biết mình còn sống, mấy mươi năm. Mỗi lần nghe xe ai bị mìn,
người nhà sống trong hãi hùng thường xuyên, nhứt là dân tài xế, lơ xe và
bạn hàng.
Đó là
chuyện ông Đốc Phủ Cui. Sao ông không phóng đường ngoài ruộng, mà phải phóng
ngang núi cho khó khăn tốn kém, vừa gây khổ cho người chết oan ức đời
sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét