Lương Thư Trung
Có những mùa chim
Lời tác giả: Bài "Có những mùa chim", được viết cách
nay tròn năm năm và phổ biến lần đầu tiên trên trang nhà Talawas ngày 17-9-2004;
và nay, nhân đang viết về những mùa màng ngày cũ, tôi thấy bài viết rất thích
hợp với nội dung cuốn sách mà nó còn mở rộng cái nhìn về các giống chim quen
biết cũ một thời qua nhiều tài liệu mà tôi lượm lặt được, nay đọc lại và bổ
khuyết thêm và xin cống hiến cùng bạn đọc khắp nơi.
Trân trọng
Lấp Vò ngày 12-3-2009
“Chim trời cá nước” là thành ngữ ở cửa miệng người nhà
quê mỗi bận có dịp lên đồng hay ra sông tìm kiếm chút mồi cho đời sống. Chim
trời cũng được ngầm hiểu là thế giới riêng, rất riêng, của loài chim, mà không
ai có thể xen vào đời sống rất tự do trong bầu trời rộng bao la vô hạn định. Cái
sướng của một đời sống là cái sống không bị ràng buộc vào bất cứ giới hạn nào,
của một quyền năng nào, từ một môi sinh bên ngoài loài chim muông muôn
trùng...
Không hiếm các nhà khảo cứu về chim muông đang đi tìm
căn nguyên của sự sinh tồn các loài chim cùng thói quen, tập quán và đời sống
của chúng. Người ta len lỏi vào tận các cánh rừng Phi Châu, Á Châu và Mỹ Châu để
tìm kiếm và thu hình các loài chim. Từ cách kiếm ăn cho chí cách làm ổ, ấp trứng
và nở con; từ cách sống thành đàn cho chí những cuộc đời riêng lẻ, các nhà khảo
cứu về chim muông không bỏ lỡ một chi tiết nhỏ nhặt nào. Tất tất đều được ghi
nhận qua từng chi tiết rất mực chính xác và linh hoạt.
Chẳng hạn, giữa cánh rừng nhiệt đới mưa dầm và ẩm ướt,
các nhà khảo cứu đã cho chúng ta biết cách kiếm ăn của nhiều giống chim lạ. Tùy
theo hình thái cấu tạo của mỏ dài hoặc ngắn mà mỗi loài chim có những kinh
nghiệm riêng của mình để kiếm mồi. Có giống chim với mỏ dài như lông con nhím
như loài chim ruồi dễ dàng kiếm mồi là loại côn trùng nằm sâu trong các thân
cây. Chúng chỉ cần lấy mỏ dài và rất bén mổ vào vỏ cây, tạo thành cái lỗ sâu
dần, và gắp mồi thật dễ dàng. Ở đó có biểu hiện sự kiên nhẫn khá bền bỉ. Trái
lại, những giống chim khác, mỏ ngắn ngủn, thì biết cách chọn lựa cho mình một
nhánh cây vừa cứng vừa nhọn, tạo cho mình một dụng cụ như cái chỉa để đâm vào
thân cây và rút ra được những con mồi mà mình muốn tìm. Nhưng cái độc đáo của loài điểu thú này là
chúng biết lấy đôi chân giữ dụng cụ vừa dùng gắp mồi thật tài tình đó để còn
dùng lại nhiều lần trong buổi kiếm ăn...
Hoặc vả, ở giữa những cánh rừng khô hạn, không tìm được
ao hồ hoặc suối nước thác ngàn, có những giống chim biết sử dụng cái mỏ vừa bén
vừa cứng của mình, mổ vào các thân cây trong ruột có chứa những dòng nhựa mà
loài chim có thể dùng làm nước uống được giữa những cơn khát nước rát cổ. Chúng
đã mổ thật bền bĩ và theo một hình thể dường như giống hệt nhau, không lớn không
nhỏ theo kích thước khoảng vài ba phân vuông dạng hình chữ nhật và thẳng hàng từ
trên xuống dưới, tạo thành một mặt võng rất hài hòa, đều đặn như một nhà điêu
khắc khéo tay nghề. Và từ những ô hình chữ nhật xinh xinh ấy là cả một nguồn
nhựa đời tuôn tràn, làm mát những chiếc lưỡi của một loài chim lúc nào cũng líu
lo giữa những cánh rừng bạt ngàn.
Chim trời là thế, và các nhà khảo cứu đã cho loài người
thấy được sự cần mẫn của chim muông trong đời sống pha với nhiều nét vừa nghệ
thuật siêu hạng vừa tài hoa tuyệt vời mà loài người khó bì kịp ...
Nhưng khi nhắc về những mùa chim, có lẽ chúng tôi muốn
nhớ về những loài chim của vùng quê tôi, những mảnh đời giang hồ đã một thời
cùng với người nhà quê tạo thành bức tranh quê với nhiều nét màu gần gũi thân ái
mà không nhà họa sĩ tài danh nào, bằng bàn tay nghệ nhân đa tài, phục chế lại
được khi nó đã không còn nữa... Nó là của thiên nhiên, của tạo hóa, của chim
muông mà loài người không làm sao nói hết được bằng lời, bằng bút tích, bằng
sáng tác.
Có
những mùa chim là một sắp xếp theo tiết trời và theo từng giống loài. Những
giống chim vùng rừng tràm có khác với chim ở đồng ruộng, những loài chim trong
vườn có khác với chim ngoài rẫy, ngoài lung. Dù không ai cấm những bờ bãi, nhưng
tự thiên nhiên đã làm những lằn ranh vô hình cho mọi loài chim. Nó là nét đặc
thù của chim chóc, mà cũng là nét riêng của từng môi trường địa lý.
Chẳng hạn, chim trong vườn làm ổ vào tháng hè có loài
cưỡng, loài nhòng, chim se sẻ, chim dòng dọc, chim trao trảo, chim chìa vôi cùng
các loại cu cườm, cu đất, cu ngói... Còn chim rừng tràm làm ổ vào tháng mười âm
lịch. Qua tháng mười một, chim bắt đầu đẻ trứng nở con. Còn chim trên các cánh
đồng lúa mùa nước ngập dai dẳng 6 tháng ròng rã thì lại bắt đầu làm ổ tháng bảy,
tháng 8 khi lúa trên đồng tròn mình, mưa Ngâu tầm tã. Những chỗ lung sâu lúa dày
là những bến bờ lý tưởng cho các cặp vợ chồng chim hủ hỉ những mùa trăng non.
Tháng 9, tháng 10 chim nở rộ. Những bầy chim ra ràng bắt đầu tập vỗ cánh chấp
chới giữa gió đồng rì rào với những đợt sóng dâng cao của biển lúa ngút ngàn, mà
cũng là lúc những cánh chim già bắt đầu thay lông them một lần trong dòng sông đời nhiều biến đổi...
Ðổi
mùa là làm lại một lần đời, nhưng có ai ngờ loài chim chóc lại có những vụ mùa
tương lân góp sức thú vị biết dường nào! Loài bồng-bồng thì ít khi làm ổ mà đẻ
trên ngọn cây cao chót vót. Loài chim này cùng với giống chim le-le có tập quán
chung là cả một bầy chẳng cần biết bao nhiêu con, cứ tụ hội là đẻ chung trong
một cái ổ trên những ngọn cây cao chót vót. Chỉ có khác là loài le-le thì cùng
nhau đạp cỏ lót ổ cho mình; trái lại bồng-bồng thì chờ con người lót ổ sẵn và cứ
thế rủ nhau từng đàn, từng đàn.
Người ta làm ổ bồng-bồng hình tháp, chiều cao khoảng một
thước, đường kính của vòng tròn làm đáy ổ cũng xấp-xỉ bảy tám tấc, miễn sao chỗ
càng rộng càng tốt. Ðáy ổ lót những nùi rơm khô cho êm và trứng khỏi chài ra
ngoài dễ bể. Chung quanh hình tháp lợp bằng lá dừa nước hay loại lá thốt-lốt để
che nắng mưa và chừa cái cửa bằng hai bàn tay để cho bồng bồng chun vô chun ra
mỗi lần về đẻ trứng. Người ta hay treo ổ bồng bồng trên các ngọn cây gáo, cây
sao, nơi chiều chiều người nhà quê thấy bồng-bồng hay về nghỉ cánh. Sớm muộn gì
bồng-bồng cũng sẽ ghé thăm cái ổ lót sẵn này, và sẽ cho những chú bồng-bồng con
chào đời trên ngọn cây cao chót vót ấy.
Nhưng sự đời đâu có đơn giản như vậy. Người ta làm sẵn
cái ổ hình tháp công phu và bò lên ngọn cây cao biệt vụt như vậy là cũng có cái
ý dụ cho bồng-bồng về đẻ và họ sẽ lượm trứng chim. Và lâu lâu, người gác ổ bồng
bồng sẽ trèo lên trút ổ một lần. Trứng thôi là trứng... Vì có đẻ mà không được
ấp trứng nên dần dần loại chim này gần như tuyệt chủng trên những vùng quê có
mùa nước lụt hằng năm. Họa hoằn lắm mới thấy vài bầy chim bồng-bồng là nhờ chúng
còn biết đẻ ở các bộng cây cổ thụ mà không ham tìm kiếm những cái ổ hình tháp
thật hấp dẫn ở rải rác nơi các ngọn cây cao lơ lửng lưng trời...
Nói
đến chim chóc sống thành đàn, dường như loài nào cũng có tính tương ái tương
thân. Cùng loài với nhau, chúng thường rủ nhau tha cỏ khô lót ổ vần công. Các
loài cu, chim dòng dọc, sáo sành, sáo sậu, cưởng, nhòng, chìa vôi, chích chòe,
trao trảo, le-le, gà nước hay còn gọi cúm núm, trích cồ, cò, diệc... thường gánh
vác chuyện hàng xóm như chuyện nhà mình. Và đặc biệt, khi tha những cọng cỏ khô
về lót ổ, cho dù sơ sài như ổ cu, các loài chim cũng đã phải kén chọn những cọng
cỏ khô rất kỹ. Chúng tôi đã nhiều lần bắt gặp sự lựa chọn chất liệu cho một cái
ổ lý tưởng của các loài chim này. Chúng cắn cọng cỏ lên rồi nhả ra, lựa cọng cỏ
khác rồi lại nhả ra, có đến vài ba lần, chúng mới chọn được cọng cỏ khô thật vừa
ý, rồi mới ngậm cho thật chắc và bay vụt về hướng chúng đang làm
nhà...
Chim dòng dọc là loài chim làm ổ kỹ nhất, cầu kỳ nhất và
có lẽ đẹp nhất. Chim mái có loại ổ riêng. Vì cần phải giữ trứng cho khỏi bị mưa
dông làm ướt ẩm và khỏi rơi rớt ra ngoài, nên cái ổ chim dòng dọc mái như cái
túi hình đáy chuông. Ngang hông cái túi ấy chúng đan dính liền một hình ống tròn
tròn giống như cánh tay áo căng phồng, dài chừng vài ba tấc, buông thòng về
hướng mặt đất, để làm cửa mỗi lúc chúng vô ra cho tiện bề đẻ trứng ấp con mà
không quản ngại gió bão ngoài trời. Còn cái ổ của mấy chàng chim dòng dọc trống
thì đơn giản hơn. Chỉ là một cái lồng nhỏ treo lơ lửng, với những lá sậy được
tước nhỏ thành từng sợi, bện lại thành chiếc cầu để chim về nghỉ chân, hay đêm
đêm chim ngủ... Tất cả được gia tộc loài chim dòng dọc này treo trên những nhánh
cây nhỏ nơi bụi mây gai, hoặc nơi các tàng cây cao cạnh bờ sông như cây sao, cây
bần, cây dừa, cây da, cây sộp, đong đưa theo gió như một cuộc triển lãm những
tác phẩm nghệ thuật giữa không trung tuyệt hảo.
Chim dòng dọc làm
ổ
Ðời
sống dường như riêng tư, ranh giới ngầm ngăn cách, nhưng không vì thế mà các
loài chim lại hiềm khích ganh tị nhau. Nếu có ai thích thú hiếu kỳ thử ngồi nhìn
vài bận cảnh những loài chim lót ổ giúp nhau, chừng đó con người mới vỡ lẽ ra
rằng chim muông vậy mà sống cho nhau hết mình. Chim le-le giúp nhau đạp cỏ để có
chỗ chứa những cái trứng nõn nà. Chim se sẻ giúp hàng xóm tha những cọng cỏ vào
cái bộng tre bên hè lẫm lúa ríu rít niềm vui. Loài cu làm ổ đơn sơ nhất mà cũng
giúp nhau tha những cọng cỏ khô sắp xếp ở một lùm cây um tùm, hay nơi lùm tre
gai vắng tiếng người...
Cái
đời sống vì nhau của loài điểu thú làm cho nhiều lúc chúng tôi ngồi nghĩ ngợi
miên man... Ngay ở nơi chốn xa này, nơi mà chim muông được có cả bầu trời để bay
nhảy... Có một sáng nắng ấm, chúng tôi bắt gặp chú chim ra ràng khoác bộ lông
cánh màu xanh lợt vừa đủ bay, giống như loài chim trao trảo bên nhà, đứng trên
ngọn non bộ nhỏ nằm cạnh bờ ao bông súng đang phơi mình trong nắng sớm... Chúng
tôi đến gần và đưa nhẹ bàn tay ra bắt lấy con chim non thật dễ dàng. Ngay lập
tức, từ bốn hướng bìa rừng, cả một đàn chim cùng loại túa ra kêu inh ỏi, bay rào
rào trên đầu vây lấy chúng tôi như phản đối một việc làm không hợp với đặc ân
của thiên nhiên dành cho các loài chim chóc là bầu trời bao la kia. Chúng tôi
giật mình và không khỏi bối rối khi tiếng kêu la của cả bầy chim lớn nhỏ vây
quanh lấy chúng tôi càng lúc càng đông... Chúng tôi để yên cho con chim non
trong cái lồng đang nuôi hai con “parakett” gốc gác Úc châu treo sẵn trên nhánh
tùng. Bầy chim trao trảo xứ lạ này không chịu thua, cứ réo gọi nhau inh ỏi như
vừa phản đối loài người vừa cầu cứu đồng loại.
Sau
cùng chúng tôi đành phải bắt con chim non trả lại nơi cái ngọn non bộ bên bờ ao
bông súng cũ. Mừng quá, cả bầy chim sà xuống bên cạnh chú chim non hỏi thăm ríu
rít, rồi cùng nhau ùa bay lên cây, còn văng vẳng tiếng kêu chưa dứt của một biến
cố thật bất ngờ, như thầm trách móc loài người...
Tôi
lại nhớ đến cặp chim “parakett” mà tôi đã nuôi có đến hơn hai năm. Ngay chiều
hôm ấy, cánh cửa lồng, có lẽ do chú sóc nhỏ hay phá phách kiếm mồi và đã đẩy nhẹ
lên làm cho cặp “parakett” bị chăm sóc quá kỹ vội len kịp bay tuốt ra ngoài...
Mãi đến gần tối, chúng tôi mới hay cái lồng chim trống trơn, và cặp chim bay đâu
mất biệt tự hồi nào. Chúng tôi cứ mở cửa lồng cho cao lên, với hy vọng chúng sẽ
trở lại, vì cái lồng này đã quá quen thuộc với đôi chim hiếm này. Ngoài ra còn
có thức ăn, nước uống và cả những tiện nghi mà loài người bày ra cho chúng, lẽ
nào chúng không nhớ để quay về.
Tôi
cứ chốc chốc lại nhìn vào cái lồng chim trống không. Qua một đêm, rồi một ngày,
đôi chim quen thân không bao giờ ngoái nhìn lại cái chốn mà loài người cứ nghĩ
rằng vàng son êm ấm ấy... Loài người lầm, hay ít ra không muốn nhớ bài học về
những chữ “chim lồng, cá chậu.” Nó bi thảm lắm, mà cũng trả giá đắt
lắm!!!
Vào
sáng sớm hay mỗi bận chiều về, tôi hay ra ngồi nơi băng đá cạnh bờ ao. Nhìn cảnh
chim chóc rủ nhau ra ao nước tắm mát, tôi lại nghĩ cặp chim “parakett” của tôi
không biết chúng có biết nơi đây, vào mùa hè, trời ấm và đẹp không thua gì vùng
nắng nhiệt đới gió mùa, nhưng vào mùa đông thì thời tiết khắc nghiệt vô cùng. Và
vào khoảng tháng 10, tháng 11 dương lịch là các đàn chim rủ nhau bay về phương
nam tránh cái lạnh mùa đông đang trở mình. Cặp “parakett” của tôi rồi sẽ bay về
đâu hay lại phải chịu chết dưới cái lạnh của mùa đông xứ này?!
Chim trời có lẽ cũng biết theo đời mà sống, và chúng
chắc cũng biết tháp tùng theo những đoàn di cư tìm một chút nắng ấm để sinh tồn.
Tôi không rành về tôn ti trong thế giới chim chóc, nhưng có điều khi phải di tản
từng đàn như vậy, có đến hằng ngàn, hằng ngàn cánh chim bay rợp trời, chúng tôi
thấy chúng đã bay thành những đội hình mũi tên, có con đầu đàn, nhiều con hộ
tống, và những đôi hữu tình nhịp cánh bay cao, nhưng không ra ngoài đội hình do
một anh chị nào đó trong bầy chim đã sắp đặt...
Cái
trật tự đó là một thứ kỷ luật trời ban bố cho chúng. Chúng không học hỏi ở bất
cứ một nền văn minh nào, từ bất cứ một trường đại học danh tiếng nào. Bằng cách
nào đó, chúng đã thể hiện được cái mơ ước mà loài người phải học mới có. Dĩ
nhiên, nơi tôi ở, không phải tự nhiên mà người ta khi vào một nơi công cộng nào
cần có thứ tự ưu tiên như phi trường, sân vận động hoặc tiệm quán, xe buýt, xe
lửa, rạp hát, sở thú, viện bảo tàng, thư viện... là phải xếp hàng chờ đến lượt
mình. Nếu có ai bỏ hàng vượt lên trên với cá tính riêng, không ai nói gì nhưng
người ấy cũng không dám vì tự lấy làm xấu hổ với chính mình, và với những người
chung quanh... Có được cái thói quen tốt ấy, loài người phải học, và học liên
tục từ trường học đến trường đời qua hằng ngàn năm...
Chim trời có cái dở là dễ bị dụ khị. Người ta hay dùng
chim cùng loài làm mồi lẫn nhau. Chúng hay bị chim mồi dụ về lung, nơi mà nhiều
bận chúng cùng nhau uống nước, mò cua bắt cá. Những anh chàng được làm mồi thật
ra cũng đâu biết mình sẽ hại bạn mình, bởi chúng đâu có ai dạy cho chúng cách
phân biệt lẽ phải trái ở đời. Cứ quen sống thành bầy, thành đàn, hễ gặp nhau là
xúm xít, chỉ cho nhau những vùng lung vũng ấm êm, những bầu trời lý tưởng. Nhưng
có ngờ đâu lại cùng gặp nạn giữa đường. Nghĩ mà thương cho chim ngoài trời, mà
cũng đáng thương cho những chàng chim mồi, với sợi dây buộc chặt nơi chân chai
cứng phong sương, cùng những chiếc móng dạn dày gió bụi.
Loài chim muông thường hay tìm đất lành để nghỉ cánh.
Những rừng cây hoang vu hay những rặng tre làng là những chốn tạm gọi là đất
lành. Ở đó có thức ăn ngoài đồng trống, có chỗ ngủ vào ban đêm. Ngày kiếm ăn,
tối về các rừng cây để dừng bước lãng du sau một ngày lặn lội trên đồng. Rồi
hằng năm tới mùa đẻ trứng nở con, chúng lại rủ nhau hội tụ về một nơi nào đó
thật yên bình, giữa một khu rừng tràm, rừng tre bạt ngàn để lót ổ. Những nơi mà
hằng ngàn, hằng ngàn các loại chim qui tụ về rần rần như vậy loài người gọi là
những sân chim. Nghĩ cũng ngồ ngộ. Sao người đầu tiên không gọi những nơi chim
quây quần như vậy là xóm chim, làng chim hay rừng chim mà lại gọi là sân chim.
Có phải để phân biệt giữa chim và người, giữa xã hội và thiên nhiên, giữa nhà
cửa và rừng hoang đồng vắng chăng? Hay loài người lại phải theo cái trật tự cũ
từ thời chữ Nho thịnh hành mà không rời khỏi hai chữ “điểu đình” có từ đời xửa
đời xưa ấy?!
Hồi
đời trước, ông bà xưa có kể lại nhiều sân chim một thời nổi tiếng khắp vùng rừng
tràm như sân chim Rạch Thứ nhứt, Kinh Dài, Thầy Quơn, Chắc Băng, Ðầm Dơi, Cái
Nước, Bà Hính thuộc Cà Mau, Bạc Liêu, [1] sân chim Ðồng Tháp, sân chim Long Hậu.
Các vùng rừng tràm miệt Tri Tôn, Luỳnh Huỳnh xưa không có những sân chim nhiều
như vậy, nhưng chim chóc cũng quy tụ khá nhiều về các cánh rừng hoang vắng ấy...
Những địa chỉ các sân chim một thời ấy giờ chỉ còn lác đác một ít người vui
miệng nhắc nhau nghe, sau những buổi vất vả ngoài đồng cày sâu cuốc bẫm... Trời
đất còn đổi thay, huống gì mọi sinh vật sống trên mặt đất ấy!!!
Chúng tôi không biết từ đâu mà có cách gọi tên các loài
chim chóc. Theo cảm tính, như vùng quê tôi, thì chúng tôi được biết phần lớn
người ta phân biệt loài chim này với loài chim khác để mà đặt tên cho chúng là
căn cứ vào tiếng kêu. Chẳng hạn mấy giống chim quen như cu, sáo, cò, vạc, quạ,
chim khách, se sẻ, cúm núm, trao trảo, trích, quốc, chim ụt, chim cú, chim heo,
le le, bồng bồng, v.v... là căn cứ vào tiếng kêu của các loài chim ấy. Nghe các
giống chim này kêu như thế nào, người ta đồ lại cái âm giống như vậy mà gọi tên.
Ngoài ra, một vài loài được người đời nhìn vào hình dáng mà đặt tên như gà đãi,
gà nước, bánh ít, thằng bè, áo dà, manh manh, ốc cao, thằng chài... Gà đãi vì
loài chim này có cái bầu vều khá lớn giống như cái túi chứa cá của dụng cụ dùng
để đãi tép cá. Gà nước vì loài chim này vóc dáng và bộ lông giống như gà kiếm ăn
trong các mẫu ruộng hoặc lung vũng ngập nước. Chim bánh ít vì hình dáng màu sậm,
tròn tròn trông giống cái bánh ít. Chim áo dà có bộ lông màu áo dà...
Ptarmigans (gà gô)
Nguồn:
.wikipedia.org
|
Riêng ở vùng Bắc Mỹ, có giống chim lại mang những tên
không giống tiếng kêu của nó. Có lẽ ở đây người ta có những nghiên cứu về chim
muông rất kỹ, nên tên của các loài điểu cầm này cũng mang tính khoa học hơn là
cảm tính từ tiếng kêu. Chẳng hạng như giống chim có tên “Ptarmigans” [2] còn gọi
“gà gô” có bộ lông như lông loài gà sao bên Việt-Nam, mỏ ngắn, lông cánh dài màu
trắng, chân thấp, móng đen, cao khoảng từ 3 tấc 3 tới 4 tấc là tối đa, mà có tới
ba loại tên khác nhau: Willow Ptarmigan, còn gọi Lagopus lagopus ; Rock
Ptarmigan còn gọi Lagopus mutus; White-Tailed Ptarmigan còn gọi Lagopus
leucurus.
Ba
loại chim cùng giống ấy, tương cận về hình dáng cùng sắc lông, nhưng có tiếng
kêu khác nhau hoàn toàn. Loài Willow Ptarmigan có tiếng kêu rất lạ như xua đuổi
các giống khác ra khỏi vùng chúng đang ngụ cư. Tiếng kêu của chúng được các nhà
khảo cứu ghi âm lại “go-out, go-out.” Chim trống gọi đàn “know, know,” “tobacco,
tobacco,” và chúng cũng kêu nhau ríu rít “go-back, go-back,”... Loài Rock
Ptarmigan, trái lại với giống vừa nêu, trầm tư hơn, họa hoằn lắm mới gọi
“croaks,” “cakles,” nhưng thường chúng sống trong trạng thái im lặng kéo dài...
Còn loài thứ ba, White-Tailed Ptarmigan, có tiếng kêu “clucks, clucks” giống như
tiếng của loài gà lôi trống hay kêu lúc hứng thú...
Ruby-Crowned Kinglet
Nguồn:
.wikipedia.org
|
Ngoài ra, tưởng cũng ghi nhận thêm một loài chim khác
tên Kinglet mà nhỏ con, có bộ lông giông-giống chim dòng dọc bên mình. Trên đầu
có lông màu vàng, mỏ ngắn, đuôi hơi dài, thường cất lên như cái bánh lái gio của
phi cơ. Không biết có phải giống chim này người Việt mình hay gọi “chim hoàng
tước”? Chúng cũng được phân làm hai loại: Ruby-Crowned Kinglet với tên khoa học
Regulus calendula; và Golden- Crowned Kinglet còn gọi tên khoa học Regulus
satrapa. Dù cùng giống, nhưng hai loại này có tiếng hót khác nhau khá xa. Giống
Ruby-Crowned Kinglet lúc cao hứng hay gọi đàn như một khúc nhạc thánh thót, chậm
và ngân dài : “tee tee tee-tew tew – ti-dee, ti-dee...” Còn giống Golden-Crowned
Kinglet tiếng hót cất cao, sau mỗi lần hót xong rồi ngừng lại một chút và tiếp
tục hót tiếp với giọng hót líu lo vang
rừng.
Ngay như giống chim ưng, hay một loại diều hâu với bộ
lông vằn, thường thường người ta chỉ gọi chung là diều hâu, cũng có tới hơn mười
loài khác nhau, do một vài đặc tính rất độc đáo riêng của mỗi loại. Các nhà
nghiên cứu phân biệt rõ nhất là tiếng kêu của chúng.
.www.birds.cornell.edu
|
|
|
Chẳng hạn loài Red-Tailed Hawk, tên khoa học Buteo
jamaicensis, có tiếng kêu líu ríu như người bị hen suyễn “keeer-r-r.” Còn giống
Swainson’s Hawk, tên khoa học Buteo swainsoni, lại kêu the thé “kreeeeeeeer.”
Một loại diều hâu khác, Red -Shoulderred Hawk, tên khoa học Buteo lineatus, có
tiếng kêu chỉ gọn lỏn với hai âm ghép lại: "kee-yer,” “kee-yer.” Với loại diều
hâu mang tên Broad -Winged Hawk, tên khoa học Buteo playtypterus, thường kêu lớn
inh ỏi với giọng rất cao “pweeeeeee.” Ngoài ra, các loài diều hâu này còn có
thêm cả chục tên gọi khác nữa. Dĩ nhiên mỗi loại đều có bộ lông khác nhau đôi
chút, và đặc biệt là tiếng kêu khác nhau rất xa. Phải chăng đó là tiếng nói rất
riêng của chúng mà chính vì thế chúng đã biểu lộ được cái cá tính của
mình...
Brown Thrashers
wikipedia.org
|
Riêng loài chim họa mi cũng năm bảy thứ họa mi, mỗi thứ
mỗi màu sắc, màu nào cũng thanh tao dịu dàng, với vóc dáng thon thon, đôi chân
mạnh, lông đuôi dài mà vẫn biểu lộ cái nét đẹp mạnh mẽ, tiếng hót thánh thót
tuyệt diệu. Trong các giống họa mi này, có loài tên Brown Thrashers, tên khoa
học gọi là Toxostoma rufum, hót với giọng khàn khàn vang âm “chack, chack.” Cùng
giống họa mi, loài Sage Thasher, tên khoa học là Oreoscoptes montanus, có mỏ
ngắn, mắt viền vàng, nhỏ con, đuôi ngắn, chiều dài khoảng hai tấc, hay cất tiếng
hót trong ngần với âm cuối cùng vọng lại “chuck, chuck”... Loài Clifornia
Thrasher, tên khoa học Toxostoma redivivum, có mắt nâu, giọng hót kéo dài và dứt
mỗi dòng nhạc tận cùng bằng âm vọng lại hơi khô “chak,” đôi khi để lại tiếng
nghe văng vẳng trong gió “g-leek.” Hoặc các
giống họa mi như Crissal Thrasher (tên khoa học Toxostoma crissale), Le Conte’s
Thrasher (tên khoa học Toxostoma lecontei), Curve-Billed Thrasher (tên khoa học
Toxostoma curvirostre), Bendire’s Thrasher (tên khoa học Toxostoma bendirei)...,
hầu hết đều khác nhau về giọng hót ; loài thì tiếng hót kéo dài, loài lại thường
ngắt nhịp đôi, nhịp ba, nhưng bốn giống này có chung một điểm là đôi mắt màu cam
hoặc màu vàng và tiếng hót thì trong trẻo như nhau.
Northern Mockingbird
Nguồn:
.wikipedia.org
|
Trong các loài chim, thường loài nào hót ra khúc nhạc
nấy, nhưng đôi khi người đời cũng bắt gặp vài loại chim biết nhái tiếng, như
giống chim Northern Mockingbird với tên khoa học Mimus Polyglottos. Giống này
hình dáng trông rất giống chim họa mi và bắt chước tiếng hót rất tài tình. Chúng
thường có giọng ấm với âm “tchack” hoặc “chair,” mỗi lần hót chúng phát âm liên
tục khoảng 6 lần hoặc kéo dài thêm trước khi đổi giọng. Trong các loài chim quen
ở đồng ruộng không thiếu vài giống nhái được tiếng người như sáo, nhòng, cưỡng,
sau nhiều ngày nuôi dưỡng và lột lớp lưỡi dày, cho ăn chút ớt hiểm cay cay, vài
con bồ cào châu chấu cẳng cao lêu nghều, vài trái chuối lá xiêm chín muồi, chút
cơm nguội và dạy chúng, chúng sẽ nói trôi chảy như giống vẹt lông xanh mỏ đỏ... Chợt dưng chúng tôi bỗng nhớ tới chữ
dùng của Nguyễn Tuân trong một tùy bút trước năm 1945: "đôi tri kỷ
gượng.”
Các
nhà khảo cứu cũng đã mang lại cho loài người nhiều thích thú khi đã tìm ra loài
chim thủy tổ (Archaeopteryx), một động vật có xương sống và thuộc loại bò sát.
Ðó chính là con thằn lằn bay (Petrosaurs). [3] Tính tới ngày nay, nó đã có mặt
từ 190 triệu năm về trước. Hình dáng của con thằn lằn bay này có đầu nhỏ, cần cổ
hẹp, mỏ nhọn. Trên đầu có sừng dựng xuôi theo thân, giống như mào của các giống
chim. Thân thằn lằn bay mới nhìn giống như một loại rắn mối với các vẩy xếp
thành từng khoanh như khoanh rắn mái gầm với hai màu đen và vàng xen kẻ. Cặp giò
của thằn lằn bay giống như hai cái đùi ếch, với những bắp thịt chắc nịch, và mỗi
bàn chân có năm ngón chân với móng dài, khác với các loài chim thường thường chỉ
có bốn móng. Ðặc biệt, đôi cánh dài khoảng
hơn 7 thước (23ft) với lớp da mỏng, không có lông, trông như cánh dơi và ở mỗi
cánh có cặp xương như xương vai, nhô ra mỗi cánh một bộ chân ba móng dài như bàn
tay, dùng để bám vào các thân cây lớn khi cần.
Chim trời có lẽ cũng không biết mình có loài thủy tổ là
thằn lằn bay, nên chúng không bao giờ tự hào và bỏ công tìm về cái nét “chính
thống” của chúng. Nhưng chúng biết khi cùng chủng loại thì có những màu sắc
giống nhau, những tiếng kêu, giọng hót giống nhau để đến gần nhau chung sống
thành đàn, thành bầy, không bao giờ phân biệt giữa chim lớn với chim nhỏ, chim
bằng với chim cưu, giữa phượng hoàng với quạ, giữa hồng tước với chim sẻ, chim
ruồi, giữa cò ma và gà đãi... Cái may của loài chim là chúng có cả một bầu trời,
những đồng cỏ, những khu rừng nhiệt đới gió mùa với mưa rừng, và chúng tự lực
cánh sinh nên không biết tương sát tương tàn. Một vài loại chim giờ không còn
nữa trong dòng sống của nó, một phần do sự tuyệt chủng của các loài sinh vật
trong sự tuần hoàn của vũ trụ, và phần khác do con người gây ra.
Mỗi
lần những mùa chim lót ổ trở về, chúng tôi nghe lòng mình bâng khuâng lạ. Nhớ
tuổi thơ xưa, nhớ cánh đồng rạ khô, nhớ những mùa mưa cúm núm kêu rền đồng, nhớ
mùa nhạn đất vờn quanh một láng trống để biết cá linh đang quây quần dưới bóng
râm của chòm bông súng, nhớ trứng chim rải rác những vạt lung, nhớ những đàn
chim dừng lại nơi rặng tre cuối xóm, thả tiếng cười trôi theo gió lộng... Ðôi
lúc, chúng tôi mường tượng một thế giới với tràn ngập những mùa chim chóc rền
vang tiếng hót giữa những cánh đồng đầy lúa vàng, hay nơi vạt rừng trầm mặc nào
đó, lúc bấy giờ đời có lẽ thú vị biết bao nhiêu!
Ngày 04-7-2004
© 2004 talawas
________________________________
[1]Theo Bạc Liêu xưa và nay của Huỳnh Minh, do Bách Việt
tái bản năm 1994, Hoa Kỳ.
[2]Sưu tập qua các tạp chí, đài truyền hình, các
websites liên quan đến các loài chim.
[3]Theo quyển The New Encylopedia of American Birds của
David Alderton, nhà xb Hermes House, Luân Ðôn, 2004.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét