Bốn năm với trường trung học Thủ Khoa Nghĩa
Nhận được báo Viên Giác số 100, đọc từ đầu đến cuối thật thống khoái, tìm lại được những khuôn mặt thân hữu cũ và đọc văn họ càng thoải mái hơn. Phù Vân lại hỏi tôi ‘Thế nà thế lào?’. Tôi xin có vài lời phân trần, ‘Thế nà thế lày!’:
Anh gửi thư bảo tôi đóng góp bài cho báo Viên Giác số 100 phát hành tháng 8, thư gởi tháng 5/97, gởi bằng đường thủy, cuối tháng 7/97 tôi mới nhận được. Cuối tháng 7 được tin bà già tôi bị đứt mạch máu não, bán thân bất toại, viêm bàng quang, hôn mê phải đưa lên nhà thương Chợ Rẩy điều trị. Cuối tháng 8 được xuất viện, tôi gấp rút về hôm trước, hôm sau đưa bà già qua Úc tiếp tục điều trị, chưa biết mặt Sàigòn - Chợ Lớn ra sao. Suốt tháng 8 và tháng 9, anh em tôi thay phiên túc trực ở nhà thương đêm ngày. Tháng 10/97 mới nhận được báo Kỷ niệm số 100. Anh chắc hết thắc mắc?
Gần cuối tháng 1/98 rồi. Ngày mai tôi tiếp tục trở lại làm. Còn 11 tháng nữa là cuối năm sẽ được nghỉ sáu tuần hè, trông lắm.
Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa
*
Đọc báo Việt ngữ hải ngoại, tôi thường bắt gặp tin Hội Cựu Học Sinh các trường cũ ở Việt Nam tổ chức ngày liên hoan họp mặt, phát hành đặc san kỷ niệm với khá nhiều hình ảnh cùng những bài viết về trường. Tờ đặc san kỷ niệm 50 năm thành lập trường Trưng Vương ở hải ngoại gồm khoảng 200 trang, đầy đủ hình ảnh giáo sư và học sinh. Các cựu nữ sinh Trưng Vương nổi bật và thành công ở hải ngoại.
Gần đây bài viết về trường Trung Học Phan Thanh Giản của nhà văn nổi tiếng miền Nam, Nguyễn Văn Ba, trên báo Viên Giác, làm dậy men máu dân Bảy Núi, với Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đạo hạnh, với Hai Ngoán, Ba Cụt, Bảy Đởm, thiếu học nhưng khí phách ngang tang và thủy chung.
Lâu nay mỗi lần gặp người cùng tỉnh, tôi đều cố gắng hỏi thăm về ngôi trường cũ, thầy cô và bạn bè mà không biết gì nhiều. Ở Đức chưa gặp bạn học gốc Châu Đốc. Ở Úc liên lạc được ba đứa, tuy cách nhau hơn ba ngàn cây số, qua điện thoại mới hay bọn nó đã thay lòng đổi xác sau tháng 4 năm 75, ‘hơi sức đâu mầy nhắc chuyện năm xưa nghe N.’. Tệ hơn nữa, đứa qua trước mở nhà hàng thành công, không muốn nhìn bạn cũ rách rưới mới qua sau này. Thất vọng quá, tôi đơn độc gom góp viết lại những gì bạn bè còn nhớ cộng thêm điều mình nhớ về ngôi trường cũ, may ra đồng môn đọc được sẽ xuất đầu lộ diện chỉ giáo.
Là học sinh hậu sinh 1954-58 của trường tỉnh Châu Đốc, bây giờ đã hơi già, dĩ nhiên lớp thầy cũ đã đi gần hết, lớp đàn anh mất liên lạc. Tôi kém may mắn vì có trí nhớ bất bình thường, có thể nhớ đầy đủ chi tiết mình chứng kiến thời thơ ấu, hiện tại thực tế thì hay quên, nhứt là lạc vào trung tâm phố, tôi mất hàng giờ tìm đường ra. Cái trí nhớ lẩn thẩn chỉ làm mất thì giờ với cà-phê thuốc lá, nó tuyệt nhiên không giúp tôi kiếm được tiền trả cho các món trên.
Hoa phượng nở đỏ rực các công viên, đường phố không làm tôi man mác như thời thơ ấu, thời kỳ mơ mộng và thực tại chưa có ranh giới chính xác.
Tôi nhớ gần 80% tên bạn học chung lớp Đệ Thất C trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa năm 1954-55, những gương mặt và cá tính, phòng ốc, bàn ghế chỗ bọn nó ngồi, vậy mà khi đi phỏng vấn việc làm ban đêm, sau khi cẩn thận xem bản đồ, ghi chép tên đường, góc phố, chạy đi chạy lại cho quen, ngày đi phỏng vấn lại lạc đường.
*
Tôi sống ở Châu Đốc (sau này Ngô Đình Diệm đổi thành quận Châu Phú, sát nhập vớI tỉnh Long Xuyên thành An Giang) được tròn 6 niên khóa, gồm 2 năm Tiểu Học và 4 năm Trung Học. Sáu niên khóa học hành không lưu lại dấu vết hoặc ảnh hưởng tốt xấu gì trong cuộc sống hiện tại. Trong những giấc chiêm bao gần sáng, vài hình ảnh đứt đoạn hỗn độn loáng thoáng hiện về, muốn sống lâu hơn trong giấc mộng cũng không được. Thời còn ở Việt Nam, thỉnh thoảng về quê, tôi có tham vọng ghi lại giai đoạn hình thành và tiến triển của trường, đem bàn chuyện này không mấy ai hưởng ứng. Năm 1987, dịp may gặp được thầy cũ ở Paris (thầy Lê Văn Thời, nếu còn đã gần 90 tuổi), thời gian gặp gỡ được một ngày, chưa kịp hỏi thăm thầy thì gia đình thầy đãi chầu ciné ‘Chiếc Bóng Bên Đường’ (cơ hội cho tôi ngủ lấy sức vài tiếng trong rạp), sau đó được dẫn đi Paris quận 13 đãi cơm ‘hương vị quê hương’ (theo quảng cáo) mất thêm nửa ngày khát nước vì bột ngọt. Lần sau ghé Caen thăm thầy được đãi ăn đồ biển mất toi một ngày. Buổi chiều trước khi chia tay, tranh thủ thời gian ghi chép ký ức thầy, nhưng người thân thầy mải mê tranh cãi chuyện mất nước, chuyện mặc Veston, Cravaté, biết soigné để ra đường cho Pháp nể trọng. Tôi mất cơ hội cuối cùng, thầy mất năm 1989 lúc tôi đã qua Úc.
Đêm nay gần 12 khuya, cơn nóng vẫn chưa dịu chút nào, tôi ngồi xuống bắt đầu viết lại, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, những điều thầy và đàn anh kể lại, thêm những điều mình chứng kiến về ngôi trường cũ, cùng chia sẻ với đồng môn phần nào tâm tình và nhãn kiến cá nhân đối với khung cảnh thời ấy.
*
Tôi không phải dân chánh gốc Châu Đốc. Sinh trưởng ở Sóc, lớn lên ở quận hẻo lánh vùng Bảy Núi, lúc đầu học trường Tiều ở Mỹ Đức, sau đó học trường Miên, trường Việt ở quê, long bong không biết bao nhiêu năm, nhờ vậy ngày nay nói tiếng Tiều lỏm bỏm, tiếng Miên ba kẹ, lại được khen ‘bá nghệ bá tri’ (vị chi bá láp).
Năm tôi học lớp Năm, thầy tôi phải dạy luôn ba lớp: lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba. Lúc tôi học lớp Tư, có cô giáo Ni vào dạy lớp Năm. Cô giáo Ni mặc xà-rông đen, áo cánh Nam Vang, tóc ngắn, nước da trắng hồng, thuộc gia đình dòng dõi trong quận, cô đẹp nhứt tỉnh Châu Đốc, nói không ngoa. Việc học càng mở mang, năm tôi học lớp Ba, có thêm hai thầy, thầy Chón (có tiệm sách sau nhà tôi) và thầy Lý (Trang Thuận, đậu Certificat d’Étude Primaire, tương đương lớp 6 ngày nay) dạy lớp Tư. Thầy Trang Thuận nhờ học trường Tàu và trường Pháp nên đậu Tú Tài 2 ban D, từ cò Hiến Binh cải ngạch làm Đại Úy Cảnh sát, rồi đậu Cử Nhân Luật thăng Thiếu Tá, học tập cải tạo 9 năm, mới mất ở Melbourne. Hóa ra suốt mấy năm không nhớ, tôi chỉ học với một giáo viên duy nhứt là thầy Chấp, nếu không kể trường Tiều và trường Miên.
Cuối năm lớp Tư, tôi được thưởng cuốn ‘ Loài Chim Mùa Vải Chín ’ của Lý Thị Tuyết Mai, cũng lớp Tư (học lại) được thưởng cuốn ‘Chuyện Khoa Học Việt Nam’ của Nguyễn Công Hoan. Tất cả học sinh đều được thưởng. Năm đó buổi lễ phát phần thưởng tổ chứcchung với trường Miên chùa trên. Ông quận Miên, tên Mao Kim Sóc, người phương phi, điềm đạm. Các em hãy ráng nghe, nghe! ‘Đây là bảng (?) của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại nhắn nhủ học sinh toàn quốc, nhân ngày lễ phát phần thưởng cuối năm: Nghỉ hè đã đến, trước khi các em sắp tạm biệt nhà trường, nhân dịp lễ phát phần thưởng cuối năm, tôi có lời nhắn nhủ các em. Trước hết, tôi thành thật khen ngợi những học sinh được thưởng, xứng đáng với phần thưởng nhà trường cấp phát. Còn những em nào không được thưởng, tôi khuyên, chớ nên nản chí, hãy nhớ câu, có công mài sắt, có ngày nên kim ...’
Năm Mậu Thân sợ cháy nhà, tôi gởi toàn bộ sách kỷ niệm cho thằng bạn nhà giàu, ở đường Ngô Tùng Châu Sàigòn. Nó coi thường, bỏ mất. Giận quá, hắn hiện hành nghề y sĩ ở Paris, ngày ngày ‘xách thùng đi rửa ghẻ’ (nhận xét của tên bạn gốc Văn Khoa).
Vì là quyển chuyện đầu tiên trong đời, tôi đọc nhiều lần đến đỗi gần như thuộc lòng một số chuyện (Chim Tu Hú, Chim Bìm Bịp, Chim Áo Giá v.v...). Ở Đức, đêm trời lạnh, tôi ưa kể cho con tôi nghe chuyện Chim Đa Đa, có đoạn ‘gã tiều phu vác củi về thấy Đa Đa đang ngồi khóc, không chịu ăn bát cơm của người mẹ ghẻ. Bà mẹ ghẻ đay nghiến, gã tiều phu dùng rựa chém tét đầu Đa Đa. Đêm đó, gã tiều phu chiêm bao thấy người vợ mình dẫn Đa Đa về khóc lóc, tay chỉ vào chén cơm của người mẹ ghẻ!
Sáng ra, soát lại chén cơm, thấy trên mặt là một lớp cơm mỏng, bên dưới toàn những cát; gã hối hận xách rựa trốn vào rừng, thấy con chim lạ cúi đầu kêu lên những tiếng ‘Bát cơm cát trả lại cho cha, đánh chát đầu ra bạc ác, Đa Đa’.
Quyển chuyện ‘Khoa Học Việt Nam’ có chuyện ‘Vụ Án Trúc Đào’. Bài điếu văn của Hạc Đính khóc Trúc Đào tôi nhớ trọn, bắt đầu:
‘Ấy vị nước quên mình cho đến nỗi
Nhớ Trúc Đào hiền thê em hỡi...
Kết thúc: Nay xin ghi chép mấy lời vào bia đá để kỷ niệm nghìn thu ’.
Hạc Đính khấp bái.
Lạc đề, xin trở lại trường Miên chùa trên, có nhiều nữ sinh ‘đầu gà đít vịt’ không để ý làm gì. Khi lớn, tôi về thăm quê, đứng trước nhà thơ thẩn, thì một cựu nữ sinh đồng học trường Chùa Trên ngày xưa, ở Nam Vang về thăm nhà. Nàng mặc xà-rông tơ nhuộm mặc nưa đen mướt, áo cánh Nam Vang, mảnh mai mặn mà, gương mặt nửa Tàu nửa Miên phảng phất không khí trầm mặc trên nét mặt nữ thần Đế Thiên Đế Thích, man man khó tả. Gió nhẹ lùa mái tóc bồng lơi lả bên vai, cơn nắng hanh xế trưa hong chín tím người, nàng lướt qua như cơn gió thoảng, tôi ngơ ngẩn nhìn theo. Cảm giác nao nao chưa phai lạt chút nào. Nàng đi Nam Vang, tôi lên Sàigòn. Sau nghe kể lại, Mè âu ơi! Nàng lúc đó là Hoa hậu Battambang, tôi thì mồ hôi tràn nón sắt, nước mắt ngập bi-đông, súng cầm tay chạy huấn nhục ở Trường Bộ Binh Thủ Đức. Tôi man mác nhớ cây khế ngọt bên bờ giếng Thala đúc, tập tểnh làm thơ con cóc. Mãy mươi năm qua, Xà Phớp, Cà Tâm, Til, Chau Chót... bỏ xứ đi, tôi cũng là con chim lạc bầy.
Năm nao nằm chết trong phần mộ
Gió nhẹ đìu hiu trở lại rừng
Về ăn trái ngọt trong vườn vắng
Tắm nước giếng sâu trắng bốn mùa
Ăn khế ai trao chưa mấy chín
Còn xanh như mái tóc Ol xưa. (Ol là em)
Có lần bà già tôi vui miệng với tôi: ‘Mầy chịu đứa nào ở xứ nầy, tao mở miệng mà họ không gả, tao bỏ xứ này đi’. Sao bà không mở miệng với cô Hoa hậu Battambang cho con nó nhờ? (Vì ham sắc lại lạc đề!). Tết năm Tân Tỵ, 2001, không hẹn mà gặp, nghe tin cô từ Pháp về thăm quê, tôi nôn nóng chuẩn bị máy video chờ cơ hội thu hình bóng năm xưa. Đi ngang nhà, lén nhìn vào tìm người đẹp ngày nao, hởi ơi!!! Tôi giở nón che cái máy video lủi đi một mạch. Thời gian ơi, sao mi ác quá vậy. Y, vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!
(Mạc Đỉnh Chi).
Trở lại ngôi trường Đình. Năm lớp Ba 1951-53 thoải mái, thoát nạn thầy cho nhỏ Xà Phớp xách tay vì dở toán, nó đã lên Nam Vang. Lớp chừng 24 học sinh, hai dãy bàn, mỗi bàn 4 đứa. Tôi ngồi bàn đầu, thằng Chùn ngồi đầu bàn đưa bài cho tôi chép, trả công hậu bằng tiền mặt. Cuối năm lớp Ba, thầy gọi tôi lên bảng làm bài toán đố cuối cùng duy nhứt trước khi xuống núi. Suốt những năm Sơ Học, tôi lên bảng có 2 lần, lần đầu bị Xà Phớp xách tai và trận đòn tơi tả.
Sách giáo khoa thời đó không nhiều, có thể vì xứ tôi cô lập. Cuốn vần ‘Chó với Gà một nhà xum họp. Cơn rảnh rang mài miệt chuyện trò; Rừng nhu biển thánh khôn dò. Khuyên trò ráng học, học cho thành tài...’. Cuốn vần hình bìa có con chó mặc quần Short gài chân và con gà trống. Phổ thông nhứt là ba cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư (lớp Đồng Ấu, Dự Bị và Sơ Đẳng. Tôi may mắn còn giữ được hai cuốn. Bạn bè tới nhà chơi, đem ra cho nó coi, sách cũ cưng sợ rách, bọn nó lật soàn soạt thấy phát nóng).
Quê tôi nằm giữa khu núi non, cô lập với các tỉnh gần nhứt, nên tiện nghi thành phố khó đến xứ nầy được. Năm 1950 vẫn còn xài đèn dầu, đèn khí đá, ít ai mang guốc. Dân gốc Việt đàn ông một số còn bới tóc, mục tiêu cho đám anh chị xe đò trêu chọc: ‘Chị ơi! Chị! Hà tiện gì có đồng bạc’. Chợ cũng không có rạp hát, gánh Nam Hồng ngoài Bắc trôi giạt vào hát mấy đêm tuồng ‘Thạch Sanh-Lý Thông’ (đào Kim Anh, Lệ Thủy, kép chánh mà không hát được Vọng Cổ). Gánh Công Lập với vở ‘Tiếng Khóc Bên Mồ’ hát nhằm mồng hai Tết, xui tận mạng. Lâu lâu đám cưới lớn có máy hát dĩa ASIA quay dây thiều, phải thay kim và mài kim. Dĩa ‘Hoa Rơi Cửa Phật’ nghe tới thuộc lòng. Bấy giờ đã có bài ca ‘âm nhạc cải cách’, hát nghêu ngao bài ‘Cô Lái Đò’.
‘Chèo thuyền lại đây cô lái đò ơi, đường trường kịp sang buông mái chèo trôi, đưa tôi qua bến con sông xa vắng...’, hoặc ‘Cô Bán Mía’, cùng điệu:
‘Mời thầy lại đây mua mía giùm em, lời thành thật rao xơi mía nầy xem...’
Tôi còn nhớ điệu hát năm 1948 ‘Núi cao tới mây, ta cố trèo, đường ta đi quanh co chen lấn muôn cây...’. Ngày nay hỏi lại không ai nhớ là bài gì. Thỉnh thoảng tôi lép nhép riêng bài ca liên hệ tới kháng chiến, học lóm:
‘Ra đi ra đi muôn phần ra đi, nào có sá chi bao ngày trở về, ra đi ra đi bảo tồn sông núi, ra đi ra đi thà chết chớ lui...’
Tôi rất cẩn thận, hầu như im hơi lặng tiếng khi có mặt ông già tôi, lỡ miệng là no đòn. Tứ cố vô thân, bị ám ảnh Xếp Lùn thời Tây, rất sợ lính tráng và công an, sự ám ảnh đó hiện thành nếp trong lối sống, cách cư xử và lối dạy con. Những từ ngữ chánh trị, quốc sự như ‘thanh niên, đồn bót, Việt Minh, súng đạn...’ không được nhắc tới. Là chủ tiệm sắt, ông vì quyền lợi, xin hai chữ bình an. Việc quyết định cho con theo hệ thống giáo dục Việt Nam cốt cho con không bị hiếp đáp. Mỗi lần có ai lạ ghé thăm tôi là ông không yên tâm, phập phồng lo âu. Già Sự học chung lớp Nhì, sau gặp lại mừng húm, già mời đi uống cà-phê nhắc chuyện cũ, lúc tôi về, ông già tôi um sùm la tôi, trong thâm tâm sợ già Sự dụ dỗ làm khó dễ hay bắt bớ tôi. Già Sự là Trung đội trưởng nghĩa quân gác cầu số 5, tôi quên cho ổng biết, trong giấy tờ tôi là Trung úy, Bộ Tổng Tham Mưu cấp.
Học trò thời đó mặc áo sơ-mi hay áo bà-ba, quần xà-lỏn, ít đội nón, còn thiếu thốn. Chưa có viết nguyên tử (viết Bic), hầu hết dùng viết chì, lớp Tư lớp Ba dùng viết ngòi lá tre chấm bình mực tím, đứa nào có viết bơm ‘Stylo’ là sang lắm rồi. Bọn lớp Năm mangtheo bảng đá, phấn và miếng giẻ, cây chổi để cùng nhau quét.
Có lần, một sĩ quan Pháp vào lớp đố học trò Việt Nam ‘quinze’ là số mấy? Trò Xủi đáp trúng được thưởng 5 đồng bạc (thời đó một gói bắp hầm 2 cắc). Lâu lâu được phát bánh Tây (bánh Biscuit lạt). Lính Pháp mang đồ hộp dư bán lại, dân mua đi bán lại bày bán ngoài chợ, bọn tôi đã biết thịt hộp, fromage. Ông già tôi định giá biểu ‘sáng năm cắc, trưa năm cắc, chiều năm cắc’, tôi thường lấy thêm xài, ổng làm ngơ. Buổi sáng bọn học sinh tùy hoàn cảnh, lót lòng bằng khoai, trứng trăn luộc, trứng chim cò, hột sen nấu, củ co, bánh canh bột gạo, thông dụng nhứt là bánh tằm. Ngày nay, đúng ra từ năm 1960, các loài thú cầm tuyệt chủng rồi. Tiếc ngày thơ ấu, có khi được quấn con trăn quanh cổ đi chơi, có đứa cõng con khỉ, con lọ nồi trên vai, vớt lăng quăng cho cá xiêm ăn, đút chuối cho con chồn đèn, bắt cào cào nuôi con sáo; bây giờ toàn đồ chơi bằng nhựa vô hồn.
Chiến tranh, khí giới thô sơ, chưa khốc liệt như sau nầy. Xà-lan sắt chở Commando Maroc đổ bộ bình định, đầu kinh rộng tàu lồng cu xoay sở dễ dàng, ghe chài đậu san sát. Ghe chở nồi, xuồng trầu đậu nghẹt đầu kinh mỗi buổi sáng. Thằng cha cò Tây, cò le (vì giả le lưỡi đùa) hiền lành, chiều chiều xách xe đạp chạy vòng chợ khá vui, sau về Pháp bỏ lại bà vợ Việt Nam không có con. Một thời gian, nạn bắt cóc chuộc tiền hoành hành, có người đi thưa, ông chạy ra mượn chiếc xe hàng hiệu Renault của cậu tôi, tự lái rượt theo cứu được thằng Quan con ông Xiếu.
Thế hệ trước tôi, nay chừng 60 tuổi trở lên, biết đọc biết viết là ra mầng ăn. Các bà già không biết chữ nằm võng bắt đứa cháu đọc thơ cho nghe những cuốn thơ khổ giấy A4 chừng 20 trang bằng chữ quốc ngữ như: Dương Ngọc, Thạch Sanh-Lý Thông, Chàng Nhái Kiễn Tiên, bán đầy ngoài chợ, đọc đi đọc lại có khi thuộc lòng. Nhớ lại hình bìa thơ Dương Ngọc, hình Thái Tử vác cuốc theo nàng thôn nữ Dương Ngọc ra đồng, bên dưới phụ đề: ‘Dương Ngọc-Thái Tử ra đồng. Đốn cây, nhổ cỏ, vun giồng trồng khoai’(hạnh phúc như vậy mà vua cha nỡ từ bỏ Thái Tử vì không muốn có dâu sàng dã). Hình bìa thơ Thạch Sanh-Lý Thông: ‘Chằn tinh thấy thịt mừng lòng, Thạch Sanh bèn rút búa đồng cự đương’ hay quá, hào hùng quá, nhứt là lúc Thạch Sanh ngồi tù, ôm cây đờn thần gảy lên giải nỗi oan kể lại từ đầu đến cuối; Công Chúa bị câm nghe bất giác nói ra được. Đoạn đờn tóm tắt cuộc đời Thạch Sanh, từ:
Đờn kêu tích tịch tình tang
Nhờ ai chém đặng đầu chằn miếu trung
đến:
Đờn kêu ai bắn chim bay
Mũi tên dấu máu sa rày xuống hang
và than van:
Đờn kêu trách kẻ lòng tà
Dĩ ơn báo oán mưu đà hại ta...
(lại lạc đề)
Cho đến hết năm lớp Ba, học sinh chưa đông, phòng ốc còn đủ,, nên học 5 ngày mỗi tuần, thứ năm nghỉ.
Để duy trì kỷ luật, thầy dùng cây roi mây, củ mây cứng đánh trên đầu trên cổ học sinh riết cũng mòn. Cha mẹ còn đốc lói: ‘Thầy đánh nhiều, tôi cám ơn, thương cho roi cho vọt’. Học trò lớn lên ai cũng khen nhờ thầy đánh mới có ngày nay. Ngày nay đi làm lơ xeđò, đi nghĩa quân, gánh nước mướn cũng nhớ ơn thầy. Cuối tuần lỡ thầy ‘thua me’, thứ hai vào lớp, thầy dễ tức giận ‘gỡ bài cào’ với đám học trò quỉ quái. Mới lớp Ba mà thằng Đực hủ tiếu đã lẹo tẹo với chị em con Phấn, Dồi ở ngoài kinh.
Cám ơn Thầy, thế hệ trước năm 1966 đều là học trò thầy, nhứt tự vi sư, bán tự vi sư. Nếu không có mặt thầy ở xứ nầy, cả thế hệ sẽ mù chữ.
Sau tháng 4 năm 75, ngôi đình bị san bằng làm công viên trồng cỏ. Sân đình trước Nhà Việc ngày xưa bọn tôi chơi u ấp, bắn tràm, đẽo dây thung, tán hưng hay mướn xe đạp chạy quanh trường. Những cây me xanh um, lá me bay như mưa ngày gió, ông Tà bằng đá nằm lim dim dựa gốc me. Mấy gốc me già che mát sân bị đốn sạch. Me ơi là me! Tin đó làm tôi choáng váng, đầu kinh lại bị lấp ra xa làm bến xe. Dãy phố cổ kính ngói xanh cất cả trăm năm nay được cất lại nhiều tầng lỏn chỏn, kiến trúc tạp nhạp Tàu không ra Tàu, Tây không ra Tây. Bạn bè đồng học lớp Ba 51-52 mất gần một phần ba. Người ta phá núi Chưn Num lấy đá xây lộ, kẻ đi sau lấy chỗ đâu nằm? Thầy tôi mất năm 1969.
Gần cuối năm lớp Ba, nghe phong phanh mình sẽ ra tỉnh tiếp tục học. Khi mang khai sanh vào cho thầy làm giấy chuyển trường, bạn học tha hồ chế diễu, tôi hiễu lờ mờ, vì tất cả đều do ông già tôi quyết định. Ông đặt đóng cái ghế bố, mua cái mền vãi, cái mùng và bốn cây tre làm cây giăng mùng.
*
Một sáng chủ nhựt mưa dầm tháng 9 năm 1952, tôi đang ngồi chồm hổm ngoài chợ ăn tô cháo phổi heo của chị Cà, thì được kêu về chuẩn bị lên xe. Tôi ngồi mệt mỏi nhức đầu trên hàng hóa ngổn ngang. Xe nghiêng ngả di chuyển chậm chạp trên đường lồi lỏm ngập nước.
Từ Xà Tỏn ra Châu Đốc, 42 cây số xe đi mất khoảng ba tiếng đồng hồ. Nước kinh Cầu Cây Me đục ngầu, chợ Cây Me xơ xác, vườn chuối trên sườn núi Nam Vi xanh lạnh ngắt, thung lũng cầu Tà Đét khe nước sâu thăm thẳm. Xe chậm chạp, thỉnh thoảng ngừng rước khách, qua những rặng núi Dài, núi Bà Đội Om, núi Cấm, núi Két, đường nghiêng, bỏ lại sau cái thế giới bình yên đầm ấm ra đô thị bon chen. Đúng tâm trạng trong bài học thuộc lòng:
‘Thương con thân gái đi xa
Mới lần thứ nhứt con ra thị thành
Còn bỡ ngỡ chưa lanh chưa thuộc
Lại ngây thơ, đường bước chưa quen’
Đêm xa nhà đầu tiên, cô đơn trên ghế bố lạ chỗ lạ người. Cùng ở trọ tôi có cậu Xén cùng quê lúc đó đang học Đệ Tứ, thằng Cường và con Sai con chủ nhà.
Sáng hôm sau đang lúi húi rửa mặt, thấy bác Hai Khá chủ nhà, nhìn tôi không nói một lời. Ông người mập trắng.
Sáng đó bác Hai Khá đưa tôi lên Sở Giáo Huấn tại trường nữ, ghi tên vào lớp thầy Dương Văn Mậu, lớp Nhì B, học chung với Cường, học nhằm buổi chiều từ 2 giờ đến 6 giờ, buổi sáng nghỉ. Học được hai ngày, ngày thứ tư tôi định cuốn gói về quê, bị cô ba Tên (bà chủ nhà) la, tôi xép re, mang đồ trở vô. Đêm đêm, quả là nước mắt ướt đầm ghế bố.
Lâu lắm, cả năm sau mới quen dần nếp sống thị thành, đèn điện, nước máy, cầu tiêu thùng ở sau nhà, không cần ra đầu bờ kinh sợ sệt đám phú-lít biên phạt.
Cứ mỗi thứ năm, ông già tôi mặc quần lãnh đen, áo trắng ba túi, nút thắt, xách giỏ thịt hay con gà và trưa đó dẫn tôi đi ăn tiệm ngoài chợ, ổng sợ tôi thiếu ăn, đền bù bằng những buổi cơm gà, cơm tôm, bún bì và uống nước đá chanh ở tiệm cà-phê Thái Bình, nghe mấy người phổ-ky kêu đồ ăn như hát.
Tiền cơm mỗi tháng hai trăm đồng bạc, tiền túi ba bữa mười đồng. Sức đang lớn ăn sao đủ no. Cứ vài tuần về quê, thế nào tôi cũng mang theo vài chục tiền túi. Lên mâm cơm, phải tùy món ăn gắp, ăn coi nồi, ngồi coi hướng, thức ăn có giới hạn, dọn trên dĩa tô kiểu trắng (nhà tôi ăn tô chén sành mà thức ăn dư thừa) một dĩa rau càng cua, một trứng vịt luộc xắt lát trải trên mặt, chấm nước mắm chanh, tô canh cà, dĩa đồ mặn, lay hoay đã hết, ăn xong chừng một giờ sau thấy đói. Còn nhớ loáng thoáng, gói hủ tiếu hấp có bì chan nước mắm chanh giá hai đồng bạc, bản nhạc năm đồng, bằng giá tô hủ tiếu.
Bác Hai Khá, ngạch thư ký chỉ có bằng Tiểu Học (Certificat d’étude primaire), một vợ hai con lương hơn năm ngàn (tương đương một ngàn tô hủ tiếu thời 1952), lương cao nhứt của giáo viên Úc tương đương 350 tô hủ tiếu. Giáo viên cao nhứt thời đó, tốt nghiệp École normal hay Diplôme, Brevet (tương đương lớp 10 ngày nay) sống rất thoải mái. Nhiều công chức có hai vợ, hai dòng con, có người làm, có phố. Ông Một (Thiếu úy) duy nhứt, ở cái villa. Ngạch thấp như thầy Chón ở quê tôi, sang tiệm sách đi dạy (nhờ có bằng Certificat d’Étude Primaire) lương nuôi một vợ ba con, đứa lớn lên Nam Vang học, vợ không động móng tay, áo quần trắng trơn. Chiều chiều các thầy mặc pyjama sạch sẽ thảnh thơi đi uống cà-phê tối, tiệc tùng ăn trên ngồi trước, con cái học giỏi dang nề nếp. Khó tưởng tượng, trời tối, có người gõ cửa mua vài đồng bạc đinh, ông già tôi leo qua những chồng hàng hóa ngổn ngang, kéo thông hồng mở cửa, dọn những thùng đinh ra ngoài, soi đèn dầu, cân đinh bán. Lời bao nhiêu? Ông nói: ‘họ tới mua lần này, còn lần sau, mình giành mối mà!’. Đó là chưa kể đám phú-lít rình rập biên phạt. Sự quyết định sai lầm của thầy Chón làm ông già tôi đổi ý, cho tôi qua chương trình Pháp Việt để làm thầy thông thầy ký, thay vì học chữ Tàu như đám thằng Sóc Khiếm, thằng Tỷ. Khi lớn lên, Tỷ có hãng nước tương, Sóc Khiếm có hãng dệt nhỏ, mỗi lần lái camionette về quê ăn Tết mang biếu bà con nấm đông cô, vịt khô, hột cào lát đắt tiền. Còn tôi ngồi ngất ngưởng trên mui xe đò, trong giỏ có vài ký hột dưa làm ông già tôi xụ mặt với bạn bè (xa đề).
Trở lại lớp Nhì B Châu Đốc, lớp gồm chừng trên 50 học sinh, số đăng bộ tôi 486/52. Ngày nay nhớ tên chừng 25 đứa. Lúc học lớp Ba ở quê, chỉ có ám đọc mới phải học thuộc lòng, trả bài. Trường tỉnh học sinh phải học thuộc lòng tất cả các môn, lại thêm môn chính tả và dictée không đánh phép được. Tôi chưa chuẩn bị tinh thần để học bài đêm. Thằng Cường con bác Hai Khá chủ nhà giỏi nhứt nhì lớp lại siêng năng, lễ phép, đúng là con nhà gia giáo.
Ngán nhứt là những bài récitation (ám đọc bằng tiếng Pháp). Thầy Mậu chỉ đánh đúng năm roi đứa nào không thuộc bài. Thầy đang giảng bài hứng thú trôi chảy, lâu lâu tôi làm thầy mất hứng. Có lần thầy giảng bài ‘Le corps humain’ (Thân thể người ta), Thầy say sưa giảng ‘les cinq doigts de la main sont...’ rồi chỉ tôi. Tôi ấm ớ đang ngủ gục nên bị 5 roi. Lần khác, những bội số của mètre là..., thầy lại chỉ tôi, tôi lãnh 5 roi gọn hơ.
Tuổi tác học sinh cùng lớp không đồng đều như ngày nay, học trường công lớn nhỏ gì cũng bắt đầu học lớp Năm. Trong lớp có trò Sự, trưởng lớp. Khoảng gần nửa niên khóa, bọn tôi đang ngồi trong lớp chợt có một bác nông dân bước vào, trịnh trọng đặt nải chuối cau trên bàn, tháo khăn quấn đầu, chào thầy xin cho trò Sự nghỉ học. Thầy ngạc nhiên hỏi lý do.
‘Dạ, vú nó biểu về cưới vợ mầng ăn’.
Mười mấy năm sau, đi đò trên kinh Tri Tôn, tình cờ gặp hắn ngồi trên thành cầu số 5 vẫy tay chào, cười hiền khô.
Lâu lâu có lễ lộc như đi đón rước Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm. Lời quốc ca hơi khác ‘Hồn thanh xuân như gương trong sáng’ thay vì: ‘Dù cho thây phơi trên gươm giáo’ như ngày nay.
Cuối năm, thằng Lý Hoàn Khải lãnh thưởng hạng nhứt (sau là Cán sự Bưu Điện), Trương Thành To hạng nhì ( sau là Tổng Giám thị Trung Học Đức Thành - Sa Đéc), Nguyễn Trung Cường hạng ba (Giảng sư Cao đẳng Nông Lâm Súc Sàigòn, bị vợ chửi bất tài vì kẹt lại Việt Nam). Tôi hạng 20, được lên lớp Nhứt khỏi thi, mừng húm, về quê khoe cái ‘học lớp Nhứt’.
Cám ơn thầy Dương Văn Mậu, gốc núi Sam, nhờ thầy huấn luyện cho con quen với nề nếp học đường mới. Thầy nghiêm nghị, ít cười, nhưng không nghiêm khắc, giơ cao đánh khẽ, thầy sống rất mẫu mực, tư cách hoàn toàn nhà giáo, không chê thầy được điểm nào trong trường cũng như ngoài xã hội. Thầy mất khoảng năm 1986.
Mùa hè năm đó, tôi học thêm khóa hè với thầy Nguyễn Văn Ưa, tiền trường 200 đồng, hết nhớ nhà và không thích về quê. Học cho có học, khó thâu thập được gì, đêm đêm tùng tam tụ ngũ chờ xe hàng xuống củ sắn, hè nhau ôm củ lớn chạy đem trình đàn anh trong xóm để nhập bọn xin làm đàn em.
Đầu năm học 1953-54, bác Hai Khá lại viết bức thư giới thiệu gởi con bác là Cường và tôi vào lớp thầy Châu Văn Tính, lớp Nhứt E. Cấp lớp nhứt lúc đó có 7 lớp. Lớp A thầy Hỷ, lớp D thầy Phương, lớp G thầy Mô.
Thầy Tính và thầy Phương dạy hay nổi tiếng Châu Đốc. Lớp nhứt học 2 buổi, sau giờ học chiều, hai thầy ở lại dạy thêm cho học trò mình, nên năm nào học trò hai thầy cũng đậu nhiều vào Đệ Thất. Thầy Tính hiền lành, ít khi đánh, quá lắm như thằng Huỳnh Bửu Lý thầy cũng đánh vài roi nhẹ cho có lệ. Thầy hay rầy tôi, ‘‘Đã dặn ngáp thì phải che miệng lại, mà nó cứ hả miệng hoài. Bộ ban đêm mầy đi ăn trộm không ngủ sao?’’.
Có câu chuyện trùng hợp vui vui khá lý thú. Hôm ấy thầy đang dạy cách viết thư, thằng Lý quậy quá, thầy kể chuyện về một đứa học trò nghịch ngợm, con của một lương y giầu có bị đòn, anh ta lén lấy mực đổ lem luốc trên tường, biết mà không có chứng cớ nên thôi - kể xong câu chuyện, thầy trở lại dạy cách viết thư thì bác lao công vào đưa cho thầy bức thư ở Pháp gởi về. Sẳn dịp thầy đọc cho học trò nghe, coi như bài luận viết thư mẫu. Lời thư rất lễ độ của người học trò biết ơn thầy. Thầy suy nghĩ không nhớ, lâu lắm mới nhớ ra, ‘‘à, nó đó’’. Nó là anh học trò nghịch ngợm xưa, con của thầy thuốc Ngưu. Có người hỏi, sau nhiều năm dạy học, có mấy đứa viết thư thăm thầy, ‘‘Chỉ có một đứa con của ông thầy thuốc Ngưu. Có một đứa là may rồi!’’. Cách đây 9 năm nghe chuyện đó, tôi vội xin địa chỉ gửi thư thăm thầy, đã quá muộn.
Mùa hè năm 1954, hoa phượng nở đỏ núi Sam, bị ảnh hưởng văn chương về hoa phượng, lòng thấy man mác, lo âu, bồi hồi ngày chia tay, ai cũng thuộc bài ám đọc:
‘‘Mùa hoa phượng là mùa thi cử
Chúc các em hai chữ khoa danh’’
Bãi trường, Nguyễn Văn Huynh hạng nhứt, Võ Văn Hiền hạng nhì, Lê Văn Khải hạng ba, Huỳnh Văn Khuê hạng tư, Nguyễn Trung Cường hạng năm.
Bọn học sinh lớp Nhứt và lớp Tiếp Liên lo học ôn bài vở Cách Trí, Sử Ký, Địa Lý, có những địa danh mãi đến nay chưa đến lần nào ‘‘Cái Bầu, Cát Bàn, Uông Bí, Phú Nho Quan, Nông Sơn’’, các cửa sông như ‘‘cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu’’. Học như két mà nay còn nhớ.
Bọn tôi làm đơn xin thi Tiểu Học, đơn thi viết tay trên mẫu giấy lớn. Vài ngày trước khi thi, rủ nhau đi ‘‘dò Salle’’ xem phòng và chỗ mình sẽ ngồi thi để hôm vào thi đở bỡ ngỡ. Số ký danh tôi, vần N. là 707, số gánh, số hên.
Phụ huynh và học sinh từ các quận lớn như Tân Châu, Cái Dầu đổ về tỉnh dự thi khoảng trên một ngàn thí sinh.
Hôm đầu thi Toán, cô giáo Nho (ở cách nhà bác Hai Khá một căn) và cô giáo vợ thầy Phương gác phòng tôi. Bác Hai Khá đi qua, nhìn tôi, rồi đưa miếng giấy nhỏ cho cô Nho, cô xem xong xé bỏ, bây giờ hiểu là số báo danh tôi.
Hai bài Toán chép trên bảng đen, tôi đọc và hiểu, chưa biết bắt đầu, còn lúng túng, thì ông đốc Thân bước vào chỉ câu hỏi và nói ‘‘Đây là cái bẩy nghe!’’. Hai cô giáo không hiểu, làm sao bọn học sinh hiểu? Bài toán đố về đào đất đắp nền nhà. Câu hỏi sau khi đắp nền, nền cao hơn mặt đất bao nhiêu? Câu trả lời là 0,70m, cách mặt đất từ lúc chưa đào, nếu đào rồi sẽ cộng thêm 0,05m. Cô Nho làm bài toán, rồi mang cho tôi chép. Cô sợ quá, tôi chưa bắt kịp ý cô, cô nhắc ‘‘chép lẹ đi mầy’’. Tôi luống cuống vì không biết nên chép vào giấy nháp hay chép ngay vào giấy thi. Mặt cô Nho căng thẳng. Có tiếng la từ ngoài vòng rào ‘‘bẩy tấc quây ơi!’’ chắc có ai chùi đề thi ra ngoài.
Phụ huynh bên ngoài ồn ào. Ông Thanh Tra Huỳnh Sanh, mặt ông đỏ gay, ra cảnh cáo phụ huynh, giọng nói rất gay gắt. Mấy người kỳ quá mà! Muốn tôi cho tụi nó thi lại hết hôn?. Không khí lắng dịu hơn. Tôi làm được thêm nửa bài toán sau. Kế là bài Dictée Francaise và analyse grammaticale, nếu đậu sẽ có thêm bằng Tiểu Học Pháp.
Cô Nho lại nhắc tôi, có lúc cô mất kiên nhẫn, cú đầu tôi, ‘‘quỷ chùa’’.
Cám ơn cô Nho, nếu không có cô giúp, chưa chắc con đậu, lại phải thi kỳ 2. Lúc này mới thấy cảm thông và thương cô. Việc đổ bể, cô sẽ bị khiển trách và ảnh hưởng đến việc thăng thưởng ngạch trật của cô. Tinh thần cô lúc đó căng thẳng đến độ nào, bây giờ con mới biết.
Hôm sau cô Trạnh và cô Sáu Vẹn gác giờ Luận văn và Chánh tả. Cô Sáu Vẹn hiền lành, gọi học trò là ‘‘con’’ dịu ngọt, con cô Sáu Vẹn là chị Mỹ Hạnh, hoa hậu An Giang (gồm Long Xuyên-Châu Đốc), chị Mỹ Hạnh sau là vợ của thầy Nguyễn Thuỳ, hiện giờ ở Pháp. Cô Trạnh, trẻ, cao mảnh mai, đẹp thanh thoát cao sang, giọng đọc rõ ràng thánh thót. ‘‘Tuổi thanh niên là hoa xuân mới nở, là vừng đông mới mọc, là ngọn suối mới sa, đẹp đẽ biết chừng nào, rực rỡ biết chừng nào, mạnh mẽ biết chừng nào...’’ Cô Trạnh đọc trước, cô Sáu Vẹn đọc lại, cố sửa giọng đọc chính xác cho thí sinh viết. Thỉnh thoảng cô Trạnh ngừng lại, viết chữ ‘‘d’’ trên bảng rồi bôi đi để nhắc chữ ‘‘dằng dặc’’. Cô Trạnh thật là ‘‘hoa xuân mới nở, là vừng đông mới mọc...’’ Rồi thi các câu hỏi về các môn khác. Cuối cùng là ‘‘oral’’ (hạch miệng, vấn đáp). Học sinh đọc bài thuộc lòng hay hát một bài đã được chép sẵn trong vở mang vào trình cho giám khảo trước khi đọc.
Độ mười ngày sau, Châu đốc rộn lên, quán ăn đắt khách lần nữa nhờ học sinh và phụ huynh các quận phụ cận tề tựu về nghe kết quả. Ông Huỳnh Sanh, thanh tra, mở đầu: ‘‘Hôm nay là ngày, tuyên, bố, kết, quả, kỳ, thi, Tiểu, học’’, ông nói từng tiếng một. Tôi ngồi chồm hổm trong đám đông, giám khảo thay nhau đọc danh sách trúng tuyển. Tiếng reo mừng kế tiếp nhau, mặt cha mẹ hể hả, hay gầm gừ ‘‘tao đã dặn rồi, dấu chấm khác dấu phết...’’ Thầy Phương đọc số ký danh 707 và tên tôi.
Qua ải đầu, hoa phượng nở đỏ đê mê, về quê tha hồ vênh váo với bạn bè cũ, rửa sạch cái tên ‘‘N. khùng hối lộ, bị con Xà Phớp xách tai’’.(Xà Phớp đã mất tích ở Nam Vang thời Pol, Xà Phớp, mầy ơi!)
Đậu xong Tiểu Học lại lo làm đơn thi tuyển vào Đệ Thất (lớp 6 ngày nay). Lần này tương đối ít thí sinh hơn vì một số đã rớt, nhưng thêm thí sinh gốc lớp Tiếp Liên (đã đậu Tiểu Học nhưng rớt vào Đệ Thất).
Tôi làm đúng hai bài toán, ông bà độ, câu trả lời là 25 phút và 70 m. Bài toán về nước chảy vô hồ, nước chảy ra gì đó, khi nào đầy. Hôm cuối cùng, ông Hiệu Trưởng Tài, người Bắc, vào lớp dặn, ‘‘Các ‘‘chò’’, thứ tư tuần sau, đến nghe tuyên bố kết quả’’.
Về quê, trở ra nghe ‘‘résultat’’, bác Hai Khá tiết lộ, ‘‘Mầy có đường đậu à!’’. Bác Hai Khá rất ít lời, chỉ nói một vài tiếng. Có lần tôi trốn học, ổng nói ‘‘Thằng quỷ hôm qua trốn học nghe, chết tổ mầy ạ!’’, vậy thôi.
Trung học Châu Đốc tuyển 150 học sinh, ba lớp Đệ Thất, sau lấy thêm 50 học sinh dự khuyết. Số học sinh dự thi khoảng một ngàn, số ký danh tôi là 565, cũng số gánh.
Hôm nghe kết quả, gần đứng bóng, tôi cũng ngồi chồm hổm trên sân trường mới đang cất dở dang, nghe tên mình hạng 97, tôi bật dậy chạy về. Hạng nhứt là chị Trần Thị Sáu (Giáo viên hồi hưu ở Long Xuyên), hạng nhì chị Diệp thị Nguyên (cũng giáo viên hồi hưu), hạng ba chị Lài, hạng tư Nguyễn Văn Quyền lớp tôi, hạng 12 Võ Văn Hiền, hạng 16 Hồ Văn Vinh (giáo lá, đã mất lâu rồi).
Về quê, nhiều người khen giỏi, ông già sợ tôi kiêu ngạo, nhăn mặt trừng trừng: ‘‘Mầy không giỏi đâu, giỏi là tao giỏi nè!’’. Sau đó bà già tôi nói thiệt: ‘‘Một ngàn đồng nghe!’’. Năm tháng tiền cơm chớ ít ỏi gì, chiếc xe đạp năm 1955 là 550 đồng, món xa xỉ phẩm như đồng hồ Wiler 820 đồng. Nhờ lo tiền mới đậu, mắc cỡ quá, tôi mất tự tin luôn.
Niên khóa 1954-55, Trung học có 4 lớp đệ thất, 3 lớp đệ lục, 2 lớp đệ ngũ và 1 lớp đệ tứ. Từ lớp 7A (Thất A) gồm toàn nữ sinh, lớp 7B Nam sinh giỏi, 7C trung bình, 7D đậu vớt.
Ngày khai trường (học sinh 7C và 7D còn mượn cơ sở trường Nam tiểu học), kéo qua trường Trung học mới cất dở, sắp hàng chào cờ, không khí thật nghiêm trang, im phăng phắc, Tân Hiệu trưởng là ông Ngô Văn Dư. Sau bản Quốc ca, tôi đứng sau nghe tiếng ông Đốc Thái Văn Thân (Surveillant général- Tổng giám thị) cất tiếng, Trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa xin chào, rồi ông bỏ lửng, im luôn.
Trước khi bắt đầu viết về trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa, tôi xếp 26 tấm ảnh cũ chụp từ năm 1952 - 1958 theo thứ tự thời gian ghi trên ảnh. Nhìn những gương mặt, y phục, cảnh vật trong ảnh rồi vận động trí nhớ ghi lại các chi tiết, song song có gì thắc mắc, điện thoại hỏi bạn bè thêm. Biết bao nhiêu, viết bấy nhiêu, không dám múa gậy vườn hoang, người tôi may mắn liên lạc được là anh Dương Văn Chung hiện ở Sydney, học trên tôi 3 lớp, anh kể nhiều chi tiết thời anh học, trước khi tôi vào Trung học.
Đầu tiên trường Trung học tỉnh Châu Đốc có tên Collège de Châu Đốc, năm thành lập là 1948 hoặc trước đó, vì năm 1952-53 đã có 1 lớp Đệ Tứ (lớp 9)
Năm 1950 đổi tên thành Trung học Châu Đốc.
Năm 1954 đổi thành Trung học Thủ Khoa Nghĩa đến ngày nay vẫn còn tên này
Để khỏi lầm lẫn, tôi xin ghi tên cấp lớp tương đương ngày nay
Trước 1950 Sau 1950 Sau 1971
Cours Enfantin Lớp Năm Lớp 1
Cours Préparatoire Lớp Tư Lớp 2
Cours Élémentaire Lớp Ba Lớp 3
Cours Moyen Un Lớp Nhì 1 Lớp 4 - 1
Cours Moyen deux Lớp Nhì 2 Lớp 4 - 2
Cours Supérieur Lớp Nhứt Lớp 5
Trung học
Premier Année Đệ Thất 7è Lớp 6
Deuxième Année Đệ Lục 6è Lớp 7
Troisième Année Đệ Ngũ 5è Lớp 8
Quatrième Année Đệ Tứ 4è Lớp 9
Second Đệ Tam Lớp 10
Première Đệ Nhị Lớp 11
Terminale Đệ Nhất Lớp 12
Năm 1952, việc đổi tên cấp lớp đã gây luống cuống. Lớp Premier Année đổi thành lớp Đệ Thất hay 7ème. Trước đếm từ lớp Năm tới lớp Nhứt, sau đếm từ lớp 7 ( Đệ thất ). Rồi sau năm 1970, lại đổi theo hệ thống Mỹ, Lớp Năm (đầu năm tiểu học) thành lớp 5 (năm cuối Tiểu học). Lộn xộn quá.
Châu Đốc là một trong những tỉnh có Trung học sau cùng, so với các tỉnh kỳ cựu như Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long .
Hiệu trưởng đầu tiên là ông Phạm Ngọc Đa, nhà ở xóm đường Hàng Sáo, tu theo phái Thông Thiên Học qua Ấn Độ với nhóm nhà thuốc Võ Văn Vân, thỉnh được cây Bồ Đề con của cây Bồ Đề chỗ Đức Phật thành đạo. Lúc mang về, Nam kỳ có 21 tỉnh, tỉnh nào cũng giành trồng, nên bắt thăm, rốt cuộc cây Bồ Đề thuộc tỉnh Châu Đốc, lúc đó khoảng năm 1949. Cây Bồ Đề được trồng ở Bồ Đề Đạo Tràng, địa điểm gần bến xe ngày nay. Ban đêm, có kẻ lén chặt đứt cây, nên phải đổ sửa săn sóc cây và rào lại. Cây bị chặt sát gốc, mọc lên năm nhánh, ngày nay là cây cổ thụ năm gốc, lá xanh che mát cả khu. Ngôi chùa nhỏ đủ vài người đứng lễ Phật. Thỉnh thoãng ông Đốc Châu Văn Đồng thuyết pháp, một vài nhân sĩ trong tỉnh ngâm thơ đạo vang cả tỉnh. Bồ Đề Đạo tràng là khu công viên hóng mát, trẻ con chơi đùa. Ông Bảy làm Từ, nói chuyện lắp bắp, tật nguyền. Bọn tôi đứng xa trêu chọc ‘‘Bảy quẹo’’. Xin lỗi bác Bảy, bọn cháu mất dạy quá.
Sau ông Đốc Đa là ông Tài, gốc Bắc, tóc hớt court, người gầy. Thời đó là năm cuối trước khi phân chia Nam Bắc. Đường Châu Đốc - Long Xuyên thuộc quân Đội Cậu Hai Ngoán (Tướng Lâm Thành Nguyên ). Dinh Cậu ở quận Cái Dầu, xe chạy ngang rất cẩn thận, sợ đụng, dù là con chó cũng gây khó khăn. Xe đò phải ngừng ở các trạm Phước Thiện để đóng ‘‘Phước Thiện’’ . Tướng Năm Lửa ( Trần Văn Soái ) dùng thủy phi thoàn xuống Châu Đốc duyệt binh. Bà vợ ông cũng có một đoàn nữ binh và một nữ binh xách giỏ trầu cho Bà đi diễn hành trước Nhà Lớn, gần bên nhà thương.
Từ niên học 1954 về sau, trường Trung học Châu Đốc đổi tên thành Trường Trung học Thủ Khoa Nghĩa, tên một vị quan Nam triều cuối cùng, tác giả ‘‘Kim Thạch Kỳ Duyên’’ vở tuồng hát bội nổi tiếng thời đó. Cuộc đời hoạn lộ ngài Thủ Khoa gian truân, hoàn cảnh gia đình bi đát không kém. Quê cụ Bùi Hữu Nghĩa ở Cần thơ, làm tri huyện Trà Vang (Trà Vinh ), vì binh vực dân nghèo không kiêng nể tham quan ô lại Trương Văn Uyển nên bị khép tội tử hình. Vợ là Bà Nguyễn thị Tồn, kiên tâm đáp ghe bầu ra Huế đánh trống kêu oan tới toà Tam Pháp. Ông được tha tội tử hình, nhưng bị đày đi Tiền quân hiệu lực đóng ở Vĩnh Thông, Châu Đốc. Mãi lo việc quân, khi nghe tin bà vợ mất không về chôn cất được, có cảnh nào nát lòng hơn? Ông gởi hai câu phúng điều vợ :
- ‘‘Ngã bần, khanh năng trợ, ngã oan khanh năng minh.
- Triều quận giai xưng khanh thị phụ
- Khanh bịnh, ngã bất dược, khanh tử, ngã bất táng.
- Giang sơn ứng tiếu ngã phi phu’’.
Dịch:
- ‘‘Ta nghèo khanh giúp đỡ, ta bị oan khanh có thể giải oan.
- Trong triều ngoài quận đều khen khanh đúng là người vợ.
- Khanh bịnh, ta không thang thuốc, khanh mất ta không chôn cất.
- Núi sông cười ta không đáng mặt làm chồng” .
Hay quá, đọc xong muốn thét cho vỡ nỗi oan ức. Khanh đã chu toàn
tề gia nội trợ, ta chạy theo công danh, mải mê việc nước việc quân, quên mất vợ hiền, đến đổi núi sông cười ta không đáng mặt làm chồng. Chán chê giấc mộng công hầu khanh tướng, Ngài Thủ Khoa Nghĩa khóc gào, “Đất chẳng phải chồng, sao nỡ đem thân gởiđất ; Trời mà mất vợ, thử xem gan ruột mần răng?”. Kẻ ngồi trên ngai vững vàng ở Huề có thấu chăng?
Thằng bạn xưa, đồng cảnh ngộ, nói chuyện rù rì như bồ câu trống gù gù bồ câu mái, vợ nó vượt biên qua đảo mất liên lạc, nó chạy thất điên bát đảo tìm ra rồi long đong bảo đảm đoàn tụ gia đình . Mới qua thời gian ngắn vợ nó khám phá nó không phải là giám đốc hảng may, chủ nhà hàng, hay kỹ sư điện tử như hầu hết Việt kiều khác, nó chỉ là tên làm công ở đợ ngày tám tiếng, thêm Overtime cũng không đủ nuôi dàn dĩa Karaoké hay trả tiền mướn film tập và cung phụng đám bên vợ ở Việt Nam. Nó mệt ngất, cuối tuần rủ bạn bè nhậu quên đời. Vợ nó chán chê, bỏ theo người khác, bán nhà chia hai, nhà còn nợ ngân hàng, đủ trả tiền luật sư, sạch sành sanh ! Sẵn dịp, tôi viết sẵn cho nó hai câu phúng điếu khi vợ nó chết (sẽ chết, trước sau gì cũng chết)
Ngã cùng, khanh thường mạ
Ngã túy, khanh thường lăng
Bằng hữu giai ta khanh quái phụ
Khanh đào ngã dĩ truy
Khanh nạn ngã dĩ cứu
Đệ huynh đương thán ngã ngu phu
Ta nghèo khanh thường mắng
Ta say khanh thường chửi
Bè bạn than khanh “con vợ quái”
Khanh trốn ta đi tìm
Khanh gặp nạn ta đã cứu
Anh em trách mỗ thứ chồng ngu
(Lại lạc đề )
Suốt bốn năm học, giáo sư Sử Địa chưa lần nào nhắc gốc tích cụ Thủ Khoa Nghĩa, về sau đọc sách mới biết. Mỗi sáng chủ nhật đạp xe đạp trên đường Bảo Hộ Thoại vô núi Sam, chạy nhảy trên những bậc đá Lăng Ông mà không biết đó là nơi yên nghỉ của cụ Thoại Ngọc Hầu, người khai kinh Vĩnh Tế. Dưới chân núi, có ngôi chùa, trước là tượng vị Sư bồng đứa bé, chùa Phật Thầy Tân An, dựa lưng vào núi nhìn về phía Hậu Giang. (Tiền hữu tam giang long hý thủy, Hậu đầu thất lĩnh phụng triều vân, dịch : Trước mặt ba sông rồng dởn sóng, sau lưng bảy núi phụng chầu mây). Ngài đã dẫn dân mở trại ruộng, khu Láng Linh phì nhiêu ngập lúa nuôi dân. Đi ngang đình Châu Đốc, mấy ai biết vị thần là Chưởng binh thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, từng xuôi ngược bình định vùng đất mới. Kẻ hậu sinh ăn chút bả Âu học vội quên ơn các vị tiền nhân nầy sao? (Xa đề )
Ông Ngô văn Dư bắt đầu làm hiệu trưởng năm 1954 thay thế ông Tài, ngay vào năm trường có tên mới. Ông trắng trẻo, dáng thư sinh, luôn luôn mặc bộ veston trắng, tính nghiêm khắc và gay gắt như gương mặt ông. Ông có khả năng ăn nói trước công chúng, không cần viết sẳn trên giấy, (điều nầy hiếm có thời đó) rất được giới nhân sĩ trong tỉnh nể trọng. Cổng trường vừa mở, học sinh sắp hàng hai, trai gái đứng riêng, ông đứng trong cổng quan sát, quên chào là bị bắt ra đứng bên, sau đó lên phòng Tổng giám thị, tôi chưa lên nên không biết chuyện gì xảy ra. Hàng tháng, phát tableaux d‘honneur (bảng danh dự). Vào lớp đứng bên, thường có ông Giám học, hoặc Tổng giám thị, rất đúng nghi thức, ông cầm bảng danh dự, ông ban mầy lời khiển trách “Cả lớp đang làm gì?” rồi ông khen, “thế là lớp nầy có tiến bộ”. Ông có lối hành xử như vị thầy đồ khe khắc xưa pha trộn với tư cách công chức thuộc địa Pháp. Thỉnh thoãng có việc cần vào lớp, ông chỉ hỏi bằng tiếng Pháp.
Giám học là ông Đốc Châu văn Đồng, thường mặc veston xám, rất nghiêm trang, ít nói, lúc nói chậm rải thâm trầm của người có từ tâm, chưa lần nào la hét giận dữ, bước vào lớp, lớp học trầm lại, ông nghiêm giọng “Asseyez-vous” . Tôi nhớ ông dạy Đức dục bài “Tình bằng hữu”, ông chậm rải cẩn thận viết chữ “Copain” trên bảng, rồi giảng “co” cùng nhau, pain “bánh mì” . Ông lên bổng xuống trầm “cùng nhau . . . bánh mì” . Trong một bài học, ông giảng, mỗi vật đều có phận sự riêng, cây cỏ làm mát mắt người.“Con gà để làm gì?”. Thằng Lê Hoàng Vân (đã tử trận ) xăng xái trả lời “gà để rô ti ăn”. Ngô Vînh Lâm trả lời “gà để gáy sáng” . Ông bước vụt xuống bục, đi vòng, cười sướng thỏa, khen Lâm. Ông Đốc Đồng là nhân sĩ uy tín trong tỉnh.
Surveillant Général, Tổng giám thị là ông Đốc Thái Văn Thân, da sạm, tóc hớt court, ông nói trầm trầm, lớp bọn tôi la hét phá phách ông xuống lớp nói nhẹ nhàng, “la hét có khi không giống tiếng người ta” , Ông Nhành giám thị nóng tính chửi, “Aboyez ?” Sủa như chó hả ? Ông Đốc Thân có óc hài hước, vui tính, ôn tồn, ít nặng lời . Học sinh thời đó trưởng thành hơn thời nay, giử kỷ luật nên ít gây khó khăn cho trường và giáo sư, nhứt là trường công, học sinh tỉnh hãnh diện với tên trường mình, 15 tuổi học Đệ thất là thường.
Người gần với học sinh nhất, ông Surveillant kiêm giáo sư thể dục là ông Nguyễn Văn Giỏi, có tên là ông Non. Ông Non tính rất hiền, tận tụy và tròn thiên chức. Mỗi sáng, ông dạy thể thao ở sân vận động. Ông chống nạnh, nghiêng trái, phải, trước sau đếm vang trên sân,1, 2 ,3 ,4 - 2, 2, 3, 4 - 3, 2, 3, 4. Người ông nở nang, một cầu thủ túc cầu. Sau giờ thể dục, học sinh tập đi đều, nghiêm trang hát, tiếng hát bảng “Nhạc tuổi xanh” vang rền, lời nguyên thủy “Một mùa thu năm xưa cách mạng tiến ra đất Việt . .”Ông đóng góp trọn vẹn cuộc đời cho môn thể thao Trung học nhiều thế hệ. Khi ông về hưu, tiếng đếm vang trên sân cỏ sáng tinh sương, trời còn mờ tối, vẳng đâu đây .
Trường có thêm ba bốn giám thị khác, ông Vận, ông Giỏi cao, ông Sải. Ông Sải lớn người, da đen, dễ nóng, sẳn sàng nạt nộ như thù ghét học sinh từ đời nào .
Tôi chỉ nhớ tên các giáo sư dạy tôi từ Đệ thất đến Đệ tứ( 1954-58). Trước và sau các năm đó, nếu có nhắc chỉ nghe anh Dương Văn Chung( Đệ tứ năm1954) kể lại.
Thầy Nguyễn Cữu Phú dạy Anh văn tôi đầu tiên, thầy nói rổn rảng, nhai trầu, hiền lành, không nặng lời với học sinh. Sau đó là thầy Trịnh Minh Lang, gốc Hoa, giảng hay pha tiếng Pháp. Bắt đầu Đệ thất, sách giáo khoa Anh văn duy nhất là quyển L’anglais vivant, sixième bleue, nhà xuất bản Hachette, học 2 năm. Lớp Đệ ngũ, Đệ tứ học cuốn Cinquième, bài về Christmas, ông ngồi trên bàn nói, tôi nghe thoang thoáng, “Ông già Noel ăn pudding tráng miệng”. Lên Đệ ngũ thầy Lưu Đức Dần người Bắc dạy. Ông có vẽ mệt mỏi, ít nói, nghiêm trang, giảng văn phạm pha tiếng Pháp, “to be, to have là verbes auxiliaires”. Lúc đi thi Trung học Đệ nhứt cấp, 2 bài thi dịch không dính dáng gì đến 2 cuốn sách trên.
Cô Giêng dạy Pháp văn, tính cô hiền lành nhưng nghiêm nghị. Vào lớp, cô đứng chờ học sinh đứng lên, nhã nhặn, “Cảm ơn, các em ngồi”.
Giờ Pháp văn thật khó thở, toàn là văn phạm vô bổ, participe présent, analyse logique, grammaticale khô khan . Sau đó lên lớp trên bọn tôi học với thầy Nguyễn Thế Trung và Trần Cao Luận, gốc Bắc. Đệ tứ bắt đầu học thơ văn Pháp, luận văn và dịch .
Thầy Lê Hữu Thời dạy Việt văn, thầy sống nghệ sĩ, vui tánh. Năm 1954 mà dám đọc bài “Bức thư của Hoàng Hoa Thám gởi cho cha”( của Tố Hữu ) kể ra rất can trường . Thầy sống rất mẫu mực, tôi ở nhà bác hai Khá sát bên nhà Thầy, cuối tuần thứ bảy chứa bài tứ sắc suốt đêm, thầy bưng tô nước trà qua ngồi góp vui câu chuyện nhưng không bao giờ đụng tới cây bài. Thầy nuôi 8 người con, 5 người cháu đều thành đạt. Gặp thầy ở Caen năm 1987, thầy tặng tôi một bài thơ nay còn giữ. Thầy mãn năm 1989 .
Thầy Trần Sung, gốc kỹ sư (Bác vật Trần Kim) dạy đại số hình học, lúc giảng phương trình, 2x tôi viết thành 2̽ ( 2 lũy thừa x ) vì chép sai, đáp số trúng mà vẫn bị zéro, tôi không hiểu sao, bây giờ mới vở lẽ. Thầy Trần Sung người cao lớn, hình như một trong những giáo sư cao niên nhứt, còn ảnh hưởng Pháp sâu đậm, mở miệng là “bon”.
Thầy Phan Cao Nhựt, dạy môn gì tôi quên mất, da ngâm ngâm, mặc áo trắng 4 túi, rất nghiêm khắc. Nghe mấy đứa lớp trên kể lại cũng đủ ớn lạnh. Bước vào lớp bọn học trò đứng yên như tượng gỗ, thầy kéo ghế ngồi xuống, “Ngồi xuống đơ..i”. Thầy đánh dữ quá, bậm môi, nắm đầu học sinh dọng vô bảng. Mỗi lần thầy bước vào lớp, lớp lạnh tanh, run đùi vì sợ cũng là lý do no đòn . Dĩ nhiên mấy đứa giỏi ngoan thì được thầy thương .
Thầy Trần Văn Hai, trẻ, mới ra trường, gốc Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ tho, dạy toán rất hay, lớp tư đông học sinh, có điều thầy hay chửi và khó khăn quá. Thầy có ác cảm với tôi, lý do không rõ, tuy tôi rất trọng thầy, có lẽ vì hai chất hóa học trong người thầy và tôi chống nhau. Tôi sợ thầy như cọp, rất lễ phép, mong thầy nương tay. Tôi học kém, có khi hỏi, bị thầy nạp nên nín khe, thầy không trả lời mà hỏi lại, làm tôi nghẹn luôn. Sau năm 1956, thôi học với thầy tới giờ, những điều thầy dạy không còn lưu lại dấu vết hay ảnh hưởng chút nào sau này.
Ông Đốc Phúc dạy Việt văn, chấm câu bằng tiếng “hả”, dạy Việt văn lớp Thất A . Thầy Hiệu già mặc complet trắng, đội nón cối trắng, khi về hưu, hết luôn môn Hán văn “huyết hồi tâm, máu về tim”.
Thầy Ngô Vĩnh Nghĩa, tú tài toán, dạy toán từ Đệ lục đến Đệ tứ. Tôi học chậm, các từ ngữ kề bù, đồng dạng . . mất căn bản và sợ toán tới giờ. Thầy dạy hay gặp tôi học trò dở tệ cái số tôi ít bị kêu lên bảng nên yên thân được 4 năm. Ngày nay tôi dở toán và khoa học, lại dính tới hai môn này, quả là nghiệp dĩ. Một số các giáo sư tôi còn nhớ, thầy Lê Hoàng Tánh (Việt văn) thầy Ánh (Sử - địa), thầy Thuận, thầy Trần Thiện Hiếu (Việt văn), thầy Vũ Hữu Diện ( Lý hóa Đệ Ngũ ), cô Đặng thị Ngọc (Pháp văn), thầy Thi dạy nhạc, thầy Trần Mạnh Cầm có tài nhớ nét chữ học trò, vẽ bằng hai tay.
Suốt năm Đệ thất, tôi lơ mơ chưa tỉnh, học chậm, trong số điểm hàng tháng, có khi tôi hạng 51 trong 52 đứa, lay quay copier bọn nó rồi cũng đủ điểm lên lớp, tôi không mong bảng Danh dự, dĩ nhiên không cần lảnh thưởng làm gì. Miễn có tiếng là học sinh Trung học đủ rồi. Năm đó có 4 lớp Đệ thất, ba lớp Đệ lục, hai lớp Đệ ngũ và một lớp Đệ tứ.
Năm 1954, tôi quan sát, lúc đó Đệ tứ khoảng chừng 15 học sinh. Tất cả đều chửng chạc, nghiêm trang có tư cách và chăm học. Khi họ nói chuyện hoặc ra sắp hàng chào cờ đều xứng đáng bậc đàn anh, chưa hút thuốc, uống rượu, dĩ nhiên, có anh chưa biết uống cà phê . Hôm lãnh thưởng, anh Chung lãnh nhiều, cầm không hết phải nhờ chú Xuân lao công bưng dùm cái đồng hồ lớn treo tường. Phần thưởng lớp Đệ ngũ, Lý Hoàn Minh lãnh cái Radio, chị Lan lãnh cái máy may. Đó là những món rất đắt tiền thời đó, học sinh cả tỉnh ao ước . Mãi đến năm 1957, bác Hai Khá mới mua lại cái Radio cũ cho bọn tôi nghe cải lương và ban kịch Dân Nam. Gần đây tình cờ liên lạc được với anh Chung, mới khám phá ra là chị Phấn cùng lớp với anh vừa là bạn đời của anh. Mới ngày hôm qua nầy anh chị còn là Đệ tứ đây mà! Bây giờ anh chị đã là ông bà nội .
Đàn anh lớp trên để lại câu “hát ghẹo” bằng tiếng Pháp “dẻn rô, dẻn ra, dẻn mu, dẻn mol, dẻn rô lí mè dẻn no”, trêu chọc một chị học trò trên tôi hai lớp, tôi cũng bắt chước, bị chị kêu lại hỏi câu đó nghĩa gì, tôi không biết, chị lắc đầu chê, chứ không nặng lời. Ngày nay tôi mới hiểu nghĩa ( bien gros, bien gras, bien mou, bien molle, bien jolie mais bien noir, rất lớn, rất mập, rất mềm, rất mại, rất đẹp nhưng mà rất đen). Câu này tả đúng chị, các tĩnh từ không dư không thiếu. Em xin lỗi chị, vì ngu dốt nên đùa vô ý thức, em hối hận và cảm phục tư cách chị xứng đáng là đàn chị.
Thời điểm năm 1954 chỉ có 4 dãy lớp, chừng 16 phòng học, tổng số học sinh chừng trên năm trăm. Tôi nhớ gần hết tên bạn học lớp Đệ thất C, vì học chung nhau 4 năm, chỉ có vài thay đổi nhỏ. Năm đầu Lâm Ngọc Châu làm major (Trưởng lớp), Tân làm phó, mỗi lần tới phiên lớp chào cờ, Tân ra đánh nhịp. Năm 1961 gặp lại Lâm Ngọc Châu ở Rạch Giá, hắn đang bán bán vé xe đò, tôi ăn tô bún xào và uống ly nước ngọt, họ nhứt định không chịu lấy tiền, vì tôi là bạn Châu. Oai dữ vậy ta!
Nửa năm đầu chưa có đồng phục, cần mặc áo sơ mi trắng, mặc quần dài, bỏ áo ra ngoài, mang guốc, đó là tối thiểu. Nửa năm sau, áo trắng, quần tây dài, bỏ áo vô trong, mang giày hay sandale hoặc mặc bà ba trắng hay guốc vông (mau mòn). Tấm hình chụp chung năm Đệ ngũ (1957) không còn thấy đứa nào mặc áo bà ba .
Nữ sinh mặc áo bà ba trắng, quần đen, mang guốc vông, guốc cao gót chưa thịnh hành. Nữ sinh còn kẹp tóc dài, nhưng độ vài năm sau, ít thấy ai để tóc dài. Những mái tóc quăn xoắn thay thế mái tóc dài tha thướt, mộc mạc với những gương mặt thật, không điểm phấn tô son .
Buổi sáng dọc theo đường Hàng Sáo, tiếng guốc rộn rã, học sinh tới sớm ăn sáng trước trường, xe bánh mì Pâté, cháo đậu, xôi, bên xe nước đá chú Bảy Được.
Insigne ( phù hiệu ) màu xanh dương, giữa là mặt trời trắng có nhiều tia. Thằng Tòng mang insigne Trung học, xách ly đi mua cà phê đá tại Bar Nam Hiệp, lúc trả tiền cho cô Nhung nhúc nhác, nó lắc lắc túi trên như móc tiền cốt ý cho cái insigne “chớp chớp ta là học sinh Trung học đây’. Không biết cô Nhung có nể nang gì nó không.
Giáo sư giai đoạn đầu, hầu hết gốc giáo viên Tiểu học, lên dạy Trung học, các vị thường là Đốc học (Hiệu trưởng) xuất thân từ trường École Normale (gần Sở thú ngày nay), cũng có vị có Diplôme hay Brevet (tương đương 10 năm học, nhưng thời đó trình độ cao và thi cử khó khăn hơn ngày nay nhiều), Đức dục nặng như Trí dục. Học École Normale được trả học bổng nội trú, không tốn kém cho cha mẹ.
“Dưa leo chấm với cá kèo
Cha mẹ tôi nghèo, tôi học Normale”
Trình độ Pháp văn đáng bậc thầy Tú tài sau này, không hiểu sao bọn tôi được dạy:
“Je mange du riz, je bois du l’ eau”
“Tôi ăn cơm, tôi uống nước”, loại tiếng Pháp “bầy tôi”. Cũng giống như một bà Việt Nam trách bà chủ nhà hàng Đức lường gạt tiền điện “Sie sehen ich dumm, ich nicht dumm! ” (bà thấy tôi ngu hả, tôi không ngu đâu).
Sau Hiệp định Genève năm 1954, cuối năm có một số giáo sư gốc Bắc đổi vào, các vị này đều có Tú tài nên dạy các môn chánh như Toán, Lý hóa, Pháp văn, không khí học tập thêm hứng khởi. Chiến tranh vừa chấm dứt, phụ huynh nức lòng cho con đi học, trường sở mở rộng thêm, các lớp đêm đông học sinh, tôi cũng đi học, dở toán mà trốn học toán.
Không khí chánh trị thay đổi đâu ở Sài gòn ảnh hưởng đến nếp sống thường nhựt khá nhiều. Trận đánh cuối cùng ở Cái Dầu làm đường Châu Đốc - Long xuyên gián đoạn mấy ngày. Quân đội cậu Hai Ngoán tan rã, cậu Hai và cậu Ba (Ba Bô) thôi lái xeCadillac và Traction quinze qua Châu Đốc ăn nhậu nữa. Chiếc Cadillac là kỳ quan cho bọn tôi như chiếc xe Xi-gà của tướng cướp Hiệp Liệt trong truyện Châu Về Hiệp Phố đăng trên nhựt báo Thần Chung. Suốt mấy năm liền, mỗi tuần có những cuốn tiểu thuyết mỏng, loại định kỳ, giá một đồng một cuốn, trọn bộ dường như 20 cuốn. Tiểu thuyết in trên giấy thường như Đảng Đầu Lâu Máu, Kình Thiên Đại Khách, Hiệp Sî Què, Đảng Huỳnh Long . . Mỗi tuần mua để dành, sau thành bộ, đọc đi đọc lại . Tôi để dành được 8 bộ, mang về quê cất, ông già tôi lại xé từng tờ để gói đinh bán ráo . Tờ nhựt báo mỗi tờ một đồng, giao tận nhà như Tiếng Chuông, Thần Chung in do nhà sách Thanh Sơn và Hứa văn Trung.
Tôi không nhớ ra, khoảng giữa những năm từ 1952 - 1954 một biến cố hãi hùng xảy ra làm cả tỉnh rúng động. Biến cố Bar Thanh Đạm. Trên đường vô núi Sam, cách tỉnh lỵ Châu Đốc chừng 2 cây số, lúc đó chưa có nhà cửa nhiều, dân cư còn thưa thớt, Bar Thanh Đạm nằm bên đường, trước sau là đồng trống mát mẻ, chung quanh không có nhà gần. Dân thầy chú chiều chiều thích ra ăn uống hóng gió. Một buổi chiều, có một toán võ trang bắt thực khách ra sắp hàng bắn chết, chỉ có một Thiếu uý chạy thoát.Trong số nạn nhân có anh Phong, con thầy Trần Sung. Thầy thương nhớ con, đêm đêm đi thất thểu ngoài phố một mình. Miếu cô hồn Bar Thanh Đạm ghi dấu cuộc tàn sát thời thanh bình có còn không?
Về sinh hoạt, mỗi tháng đều có một buổi sáng ‘‘Tố Cộng’’ tại sân trường. Các giáo sư gốc Bắc thay nhau thuyết trình đề tài chống Cộng, hai giáo sư chủ động là Trần Thiện Hiếu (hiện ở Sydney) và Vũ Hữu Viện (đã mất). Sinh hoạt cho giáo viên Tiểu học bắt đầu bằng những cuộc họp hành, rồi Phong Trào Công Chức Cách Mạng Quốc Gia. Bác Hai Khá, sáng dậy dượt bài ‘‘Suy Tôn Ngô Thủ Tướng’’, bác thở phì phò, bàn tay xoa qua xoa lại mặt mũi vừa hát òm òm ‘‘Ngô Thủ tướng Ngô Thủ tướng muôn năm ...’’ Thằng Cấn đổi lời ‘‘Tô hủ tiếu tô hủ tiếu ăn ngon’’. Hôm Thủ tướng Diệm đến Châu Đốc, bọn tôi phải tập dượt cả tuần để đón ông.
Mùa nước năm 55, hai nữ sinh tên Odette và Apoline theo bạn đi chèo xuồng bị chết đuối, gây xôn xao. Hồn hai nữ sinh này thỉnh thoảng hiện về, nghe nói chớ tôi chưa gặp. Thêm ông trọng tài Tươi, tiếng nói như chuông, bắt cá bằng điện bị tai nạn mất, làm rúng động tinh thần dân Châu Đốc, có báo đăng hình ông .
Ngoài việc học chúng tôi giải trí tại rạp Lạc Thanh và Tân Việt. Rạp Tân việt cất năm 1956 bên bờ hồ (Sau này hồ bị lấp) trên đường Bảo Hộ Thoại. Rạp Lạc thanh ở đầu chợ phía trái nếu nhìn từ bờ sông Hậu Giang, chủ người Chà, thường chiếu phim Ấn Độ. Trong ‘‘Xuôi Dòng Cữu Long’’ có nhắc tới rạp Tân Kiểng bên hông chợ Châu Đốc (Gạo chợ, nước sông, trang 116 ). Tôi hỏi tứ tung mà không ai biết, Châu Đốc đâu có rạp Tân kiểng. Gặp người bạn Vĩnh Long mới biết rạp đó ở Vĩnh long. Phạm Thăng nhân huynh thương Vĩnh long hơn Châu Đốc, nên đến Châu Đốc mà lòng còn vương vấn quê mình!
Cơn nắng miền Tây và hơi nước bạc Hậu giang hong chín vài quả tim, như già Thiềm Bữu T. và chị H. ; già Trình minh H. với chị L. lớp 7A .
Trưởng lớp Đệ lục là anh Đinh văn Giống, lớn tuổi, một loại Ami Protecteur, rất sốt sắng tranh đấu, có điều giả học tệ quá, lớn tuổi học không vô, sau đi nghĩa quân, bạn bè là Đại úy, Thiếu tá vẫn xưng hô mầy tao, sau 75 bị hành dữ vì quen với sĩ quan .
Năm đó cũng có tổ chức cuộc thi ca nhạc toàn tỉnh, tại Nhà Việc. Chị Xinh hạng nhứt, chị người Bắc ( không biết tên) hạng nhì, chị Phạm thị Hiếu hạng ba. Chị Hiếu nổi tiếng văn nghệ của trường, chị là cháu thầy Thời bên cạnh nhà tôi trọ, mỗi buổi trưa nghe chị đưa võng hát ru em ‘‘Kìa ào ào, chiến xa Việt Nam thẩng tiến lên đường’’. Dịp này có 3 phần thưởng cho học sinh toàn trường. Phần thưởng Trí dục (học giỏi ) về chị Lài, 100 đồng. Phần thưởng Đức dục (hạnh kiểm) thằng Chung Kinh lớp tôi, 150 đồng.Phần thưởng Thể dục về anh Giàu, 200 đồng (tương đương 40 tô hủ tiếu, hoặc 240 dollars Úc thời giá bây giờ, 1998)
Vừa lãnh phần thưởng Đức dục xong, lớp thầy Đào Công Kỹ cũng vào giờ Đức dục, thằng Châu mang cuốn Sept Nuits merveilleuses ( Bảy Đêm khoái lạc ) vô lớp, chuyền tay khoe, lúi húi bị thầy Kỹ bắt đem lên xem. Chung Kinh khai sách của Châu với Tổng giám thị, ra Hội đồng kỷ luật, Châu lãnh zéro conduite, bị đuổi, Chung Kinh hết lãnh tableaux d’Honneur (bảng Danh dự) từ đó về sau.
Năm 1954 học sinh Châu Đốc, Long xuyên phải xuống Cần thơ thi Trung học Đệ nhất cấp. Anh Chung là ngôi sao sáng, năm đó tỉ số đậu khá cao, vào trường chuyên môn như Quốc gia Sư phạm, Thương mại . . ra trường là tột đỉnh, lương bổng mỗi tháng mua trên 2 lượng vàng. Nhớ chị Ba trọ ở nhà thầy Rớt, học sau tôi một năm, vừa đậu Tiểu học (1955) mừng quýnh, về quê sắm áo dài, xin được chân Giảng tập viên, lương bổng khoảng 1.800 đồng, ăn cơm nhà đi dạy khá thảnh thơi. Cá mắm rẽ rề, chưa kể cha mẹ học trò biếu xén mùa nào thức ấy phủ phê, thời đó chưa có nhiều nhu cầu, còn xài bạc giấy xé hai.
Bốn năm Trung học, tôi như cái bóng ma, không có đứa bạn thân, chơi quanh quẩn xóm, chưa có tư cách khả năng làm đàn em già Giống, chưa thăm ai và chưa mời ai về nhà chơi, vì tôi ở trọ. Bạn bè cãi vã tranh luận, tôi trố mắt nhìn, một ám ảnh mặc cảm ẩn tiềm trong lòng, ngày nay mới tìm ra căn bịnh đó. Tôi sợ ông già tôi như gà thấy cáo . Mỗi lần về quê, thấy bạn bè quen ở tỉnh đi ngang, tôi đều lẩn mất , sợ cái sợ mình, sợ thầy sợ bạn, sợ người. Thằng Nguyễn văn Nghĩa, bạn cùng lớp, ngồi kế bên tôi, nó giận dữ chuyện gì đó, nhào tới đánh tôi cho được, tôi dội ra sau, ù lì không phản ứng. Thầy Sơn dạy vẽ lấy sổ biên phạt consigne Chủ nhật, không hỏi một lời. Tôi sợ cuống cuồng chạy lên xin lỗi thầy, mặt nó vẫn sừng xỏ - Thưa thầy Sơn, thầy không được công bình, không chịu tìm hiểu ngọn ngành. Lâu lắm mới gặp nhau trên bến đò Vàm cống mùa nghỉ hè, hai đứa vẫy tay chào nhau, vừa vội vã theo xe chạy, đò lui, nó là giáo lá bèo nhèo vì thời thế .
Năm tôi học Đệ lục, trường đã có Đệ tam (lớp 10) từ 1955, đáng lẽ nên học thêm Toán, Lý Hóa, tôi sợ hai môn này, chạy trời không khỏi nắng, vì đi thi đó là hai môn chánh. Tôi mãi mê mơ mộng viễn vông, mỗi lần giải Toán trong lớp, đầu óc tôi u tối, bây giờ mới biết đó là loại bịnh tâm lý ADD (Attention Deficit Disorder ), không thể tập trung tư tưởng lâu, nói theo đạo là ‘‘tâm viên ý mã’’. Bị bạn học bỏ xa, tôi buông xuôi tới đâu thì tới, muốn lấy lại căn bản cũng không được, chỉ bám lấy cái hy vọng, nhờ piston của ông già đẩy ‘‘xải chi’’ (xài tiền) như kỳ thi vào Đệ thất. Mãi đến ngày nay vẫn chưa biết giải phương trình bậc 2 và định luật Ohm, điện trở. Mà biết làm gì ba cái đồ ma đó, kêu thợ điện tới là nó ráp cho đầy đủ.
Nhớ năm Đệ tứ, chưa thi, thằng Phát bỏ ra đời, thằng Đời có vợ giữa năm. Già Trình minh H. trách chị L. ‘‘ham villa’’, chị L. kêu gào (chị Chanti kể lại). So với bạn bè, tôi vẫn trẻ con, mỗi khi tan trường, đứng sắp hàng, thấy Châu thị Marie, tóc dài, ngây thơ, đứng đầu hàng suốt mấy năm, ra khỏi cổng trường tôi quên hết .
Một chiều mưa ẩm ướt, mới vừa đọc xong bài báo về Công chúa Mãn châu cùng một thanh niên Nhật tự tử, tâm trí tôi lơ mơ theo câu chuyện các cô Nhựt và Mãn châu. Vừa rồi, xem nhật ký của Hoàng đế Phổ Nghi mới biết đó là cháu ông ta, con Hoàng tử Phổ Trị .
Cuối niên khóa 1958, bốn lớp Đệ tứ A, B, C, D khăn gói xuống An giang thi Trung học Đệ nhất cấp. Trung tâm thi đặt ở trường Thoại Ngọc Hầu, cho các trường Châu Đốc, Rạch giá và Long xuyên. Xe đò đầy ắp, tiền xe lên giá ngang xương .
Tôi chưa tự tin, chắc sẽ rớt, nhưng còn chút hy vọng hão huyền, nhứt là trông cậy ông già tôi, lần này không phải rẽ như kỳ thi Đệ thất, mà là mười ngàn, sau đó tăng lên mười lăm ngàn (viết ra sao không biết mắc cở?). Bác hai Khá (lúc đó đã đổi xuống Long xuyên, vì nhập tỉnh) dặn tôi làm dấu trong các bài thi để giám khảo dễ nhận ra. Ông già tôi quyết đánh trận để đời, ông tưởng Trung học Đệ nhất cấp giống như Brevet hay Diplôme ngày trước, làm Thầy Ký, Cò-mi rồi leo dần lên quận.
Ngày đầu thi Việt văn, bình luận bài thơ ‘‘Vịnh Côn sơn’’ của cụ Phan Chu Trinh, bài đó tôi chưa học. Toán được nửa bài, Lý Hóa được vài câu Anh văn lấy bài trong Cổ Học Tinh Hoa ra dịch và một bài dịch Anh Việt. Pháp văn còn là sinh ngữ một, bài dịch Pháp Việt (L’ heure de repos = Giờ nghỉ ngơi)và bài Rédaction ( luận văn), đề tài viết về một dự định du ngoạn khi nghỉ hè. Đó là dự định thôi, tôi lại tả cuộc nghỉ hè. Hors de sujet (lạc đề ). Ngặt quá, Pháp văn đâu có học chân truyền, modes và temps chưa vững, làm sao conjuguer verbes ở conditionel passé ? Chế độ thi quá nghiêm ngặt, giám thị lớp rất sợ cấp trên, im lặng và căng thẳng. Thầy giáo Khải có hai người con gái thi, đúng ngay phòng ông gác, cũng đành làm ngơ, và ông chưa đủ trình độ nhắc toán Trung học. Qua cửa sổ, thỉnh thoảng thấy ông Phạm Văn Lược, Chánh chủ khảo, đi chầm chậm nhìn vào, Đôi mắt nghiêm khắc và cảnh cáo. Thí sinh ít ai dám đánh phép như thời nhiễu nhương sau này. Trường hợp thằng Bỉ, nổi tiếng trong Ban Văn nghệ trường vào dịp phát thưởng, thần tượng của các nữ sinh. Bỉ giỏi văn nghệ, có số đào hoa, suốt năm ôm đờn hát những bản nhạc thịnh hành thời đó ‘‘Chiều nay bên làng cũ, cô thôn nữ yêu kiều ..’’. Tôi nhớ nó ôm đờn, đầu nó gật gật, lim dim như bị xì-ke hành, ‘‘Chim ơi cho ta nhắn đôi lời, một lời mà thôi, về phía xa xôi, thăm người chiến sĩ giùm tôi’’ . Nó lẫn lộn âm nhạc và toán đại số hình học. Vào giờ thi toán, nó chép bài ‘‘Kiếp Nghèo’’ nhạc và lời của Lam Phương, bị cấm thi kỳ hai (lại lạc đề).
Ngày có kết quả, thí sinh mấy tỉnh, thêm phụ huynh, ngồi âu lo chờ kết quả, rất nhiều phụ huynh gốc nông dân, còn mặc áo bà ba đen, quấn khăn, đứng bên con cháu mặc âu phục tân thời. Lúc kêu kết quả, có tiếng hét reo mừng, có cô cậu tiu nghĩu đứng dậy ra về, phụ huynh quần áo xốc xếch theo sau. Thằng Múi cùng quê tôi, tên vần M kêu trước, chết tôi rồi, nó đậu ‘‘vớt’’ vô Đệ Thất, học lớp D, cứ đinh ninh tôi giỏi hơn nó, nó đậu rồi, còn tôi thì chưa biết, hồi hộp chờ đợi. Tới vần N thằng cha Giám khảo đọc sót tên tôi, đi đời. Xách túi quần áo theo ông già đi ra, xe đò đậu dài dài chờ kẻ bần nhân lạc đệ, tụi lơ kêu nghe phát ghét : ‘‘lên xe này đi ông bác, cậu hai’’. Xe đò ngày đó ‘‘bỏ tài’’, chỉ cần rước học sinh thi rớt là đủ đầy xe. Lần đầu nếm mùi thi rớt, còn nữa !
Tôi lủi thủi lên xe, ai nấy im lìm, thi rớt buồn đã đành, trước sau gì tin thằng Múi đậu sẽ tới tai ông già tôi, khốn khổ hơn. Ông sẽ so sánh, chê khen. ( Múi hiền lành, đẹp trai, chăm học mà tôi ganh ghét nó mấy năm. Mùi vào Quốc gia Sư phạm, đổi về Sa đéc, có vợ con sống cuộc đời bình thản hạnh phúc, hết bị bầm dập thi cử như tôi) .
Thi kỳ hai, tôi bay luôn. Tệ hơn, lúc đầu làm đơn xin thi Đệ tam, điểm trung bình tôi quá thấp dưới moyen, chờ đợi từ tuần này sang tuần khác, ông già tôi nổi quạu, thêm ông cậu tôi buôn bán ở Sài gòn thôi thúc, tôi phải miễn cưỡng rời trường Thủ Khoa Nghĩa, nhớ bạn bè, nhớ trưa tắm Cầu Quan, nhớ sân vận động. May hay rủi phải chịu, vì sinh vào thời chiến tranh và cuộc đổi đời năm 75.
Qua bao nhiêu nhục nhằn, đầu tư tất cả cho cấp bằng công danh của con để nhẹ bớt áp lực chánh quyền (Thầy Thông,Thầy Ký, ông Cò . . ) ông già tôi xấc bấc xang bang vì sự thất bại ê chề của tôi. Cuộc khủng hoảng triền miên của gia đình đã đành, tin con cháu người khác đổ đạt càng làm làn sóng khủng hoảng nổi lên cuồn cuộn. Suốt mùa thi, việc buôn bán chỉ có bà già tôi, ngưng trệ nhiều. Chú thằng Múi, rít điếu thuốc bao xanh hôi rình, mặt nghiêm trọng, ‘‘Thằng Múi cái mặt nó thiệt là buồn à ( Ý nói mặt nó không sáng sủa ) vậy mà thi một keo được liền’’. Mặt chú thằng Múi càng thích thú, mặt ông già tôi càng dài và xám thêm. Ông đi sai sải về nhà đổ thêm dầu lên đống than đang ầm ỉ cháy. Ông Kiếm mập, được dịp tỏ ra sành về thi cử, đem khoe người em gái vợ, ‘‘toán nó hay lắm à ! đậu viết kỳ hai’’, khoe ai không khoe, cứ chiều chiều lê lết đến nhà tôi, mụ vợ đứng bên kia cười toe toét. May quá cô em vợ ông rớt Oral kỳ hai, cũng như không. Cảm ơn ! Cảm ơn!
Đêm đêm nằm nghe ông già rên rỉ, kiệt sức buông xuôi sau khi tôi rớt kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp cuối cùng năm 61, ‘‘Phải nó đậu Trung học, vô được Sư phạm như thầy Định, thầy Chói, tao chết cũng vừa lòng’’. Ông già tôi mệt mỏi lắm rồi. Bà già tôi gan góc hơn, ‘‘Năm tới đậu à, tao cho đậu’’, nói như mê sảng. Năm sau đã dẹp Trung học, đậu nỗi gì. Giấc mơ ông già tầm thường quá, đi dạy học, cưới con chủ tiệm vải, mở tiệm vải mần ăn. Tôi trốn trong giấc mơ cao sang hơn ( cưới Công chúa Mãn Châu hay làm Phò mã Nhựt ). Tôi tìm bạn bốn phương với cô gái Nhựt, Mai Mộc Hòa Tử (Kazuko Umeki ), liên lạc đến năm 1988, ngày nay nhìn mấy mươi tấm ảnh cô từ nhỏ tới có gia đình mau quá. (lạc đề xa quá )
Đậu xong Trung học Đệ nhất cấp, năm đó có nhiều trường Quốc gia Sư phạm mở thêm khóa cấp tốc một năm để đáp ứng nhu cầu gia tăng sĩ số học sinh Tiểu học các quận. Lương tháng 4.200 đồng, cơm tháng chừng năm trăm đồng, chiếc xe Mobylette chừng chưa tới sáu ngàn đồng. Một loạt học sinh giỏi yên phận, thi vô Quốc gia Sư phạm tỉnh và về quận dạy an nhàn đến năm 1965. Lớp Đệ tứ C năm 58, tôi biết trên 10 đứa làm nghề giáo, vài đứa đi ngành cao hơn, đa số vào quân đội, nhứt xanh cỏ, nhì đỏ ngực. Ít gặp, nếu có gặp chăng trong quán cốc bên đường, đoàn xe nhà binh ngập bụi, mặt rắn rỏi, lớn tiếng, uống nước đắng và kỵ nước ngọt.
Song song với trường Trung học Châu Đốc, Thủ Khoa Nghĩa, khoảng năm 1953 có trường Nguyễn Đình. Trước đó (theo lời anh Chung kể ) có trường tư thục Phan Bội Châu, không phải tên nhà cách mạng lão thành. Nguyên có một giáo sư Anh văn họ Phan hợp tác với ông Đốc Châu văn Đồng, rồi bỏ về Sài gòn. Ông Đốc Đồng đặt tên trường Phan Bội Châu, họ Phan bội ước họ Châu. Nghe sao viết vậy.
Năm 1955, Châu Đốc thành lập thêm trường bán công Nguyễn Hữu Cảnh, kế bên trường Thủ Khoa Nghĩa, học phí nhẹ và lớp tiếp liên không còn.
Xa trường cũ, bơ vơ giữa đám học sinh đồng học xa lạ Sài gòn, tôi nhớ ray rứt trường chừng vài tháng, rồi cũng quên .
Năm 1959, có Đại hội Thể thao học sinh Toàn quốc tại sân Tao Đàn. Học sinh Thủ Khoa Nghĩa năm đó đoạt rất nhiều giải điền kinh. Hôm cuối có trận túc cầu chung kết giữa Quốc gia Sư phạm và Trung học Thủ khoa Nghĩa. Bốn cánh khán đài gồm mấy trường Trung học lớn Thủ đô chiếm cứ (Pétrus Ký, Gia Long, Chu Văn An, Trưng Vương). Tôi may mắn chen vào, ngồi khép nép giữa học sinh Pétrus Ký. Dĩ nhiên học sinh Thủ đô ủng hộ Quốc gia Sư phạm Sài gòn. Đội Thủ Khoa Nghĩa nhỏ tuổi hơn, bị dẫn 0-2 hiệp đầu, tôi thấy tổn thương. Thủ môn Quốc gia Sư phạm lớn con, giữ hay quá, anh cũng gốc Thủ Khoa Nghĩa, trên tôi hai lớp. Hiệp sau Thủ Khoa Nghĩa gỡ huề. Thằng học sinh Petrus Ký ngồi bên tôi la ỏm tỏi, nó la như ‘‘huấn luyện viên thượng thặng’’, Tao chỉ jeux cho đá . . Tụi Thủ Khoa Nghĩa uống nước mạch chạy mau lắm. Thủ Khoa Nghĩa thắng điểm, đoạt giải Túc Cầu học sinh Toàn quốc năm 1959. Dân Sài gòn uống nước phèn ống rỉ sét chớ sang trọng gì đó. Từ đó tôi ác cảm với dân gốc Pétrus Ký, mỗi lần gác thi, không nhắc thì thôi, tôi lại tìm cách đì bọn nó. Xin lỗi ! Tôi lớn mà quá tiểu tâm, thù vặt, vô lý.
Năm 1958, tôi rời trường, hay bị đuổi kỹ thuật, ông Hiệu trưởng Ngô Văn Dư củng đổi về sài Gòn . Gặp ông ở chợ Bến thành, vẫn bộ veston trắng, đội nón nỉ trắng. Nắng Sài gòn ông đi mà chịu nóng. Mấy vì Hiệu trưởng kế tiếp, hình như ông Lịnh, ông Trịnh Văn Mười Hai, ông Nguyễn Vạng Hộ . Sau 1962 thành trường Trung học Đệ nhị cấp. Tôi mất liên lạc từ năm rời trường. Mỗi lần về quê ăn Tết, qua khỏi Long xuyên, tôi đi ngả Lộ Tẻ nên ít có dịp qua Châu Đốc. Trường đã xô tôi ra, suy lại thấy may nhiều hơnrủi . Nếu tôi được nhận, lại vào học Ban A (Khoa học) làm sao tôi theo nổi môn Lý Hóa, Vạn vật. Lại ù lì vô ích thêm vài năm nữa, chắc gia đình tôi điên mất. Năm ra trường, danh sách không có nhiệm sở Châu Đốc, tôi lang bang ở Sài gòn, rồi năm 1974 xin về Quốc gia Sư Phạm An Giang cho gần, Bộ Giáo dục lại đẩy tôi về Sư phạm Ba Xuyên .
Năm 1971, Hội Cựu học sinh tổ chức họp mặt tại trường vào sáng mồng hai Tết. Tôi từ Tri Tôn ra trễ, được đón tiếp đưa đến chỗ ngồi, thế hệ cấp lớp tôi không có ai, lớp theo đơn vị quân đội, lớp như bèo trôi giạt bờ bến nào?
Lớp trẻ, sau tôi độ năm, sáu năm, chuẩn bị dàn âm thanh đàn hát giúp vui ngày họp mặt. Bơ vơ không gặp được một người đồng lứa mình chia xẻ, tôi ngồi ngơ ngáo cả buổi. Trường Thủ Khoa Nghĩa không muốn dung chứa tôi, tôi ngồi lơ đảng, Ban tiếp tân quên cho ly nước, khát nước mà không dám xin, muốn lấy miếng bánh trên dĩa mà còn ngại ngùng, lạc lỏng.
Năm xưa chim hót vang rừng
Ăn chung trái ngọt, uống chung suối ngàn
Năm nao chim đã vỡ đàn
Lặng im tiếng hót, ngỡ ngàng cuộc vui .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét