BẮT CÁ
CHỐT
TRẦN VĂN
Cá chốt là một loài
cá có rất nhiều ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Xin lỗi bà con ở miệt Bạc Liêu, mà
người Triều Châu gọi là xứ Bồ Líu. Có một câu, ca dao, phương ngôn cũng không
phải, mà là câu nói chọc ghẹo, phá chơi cho vui vậy thôi, đó là
câu:
Bạc Liêu là xứ quê
mùa
Dưới sông cá chốt,
trên bờ Tiều Châu (Triều Châu)
Khi ở Sài Gòn đi
học, nghe hai chữ quê mùa, nhiều sinh viên gốc Bạc Liêu cũng đổ quạu, cự ngay,
xứ tôi là xứ quê mùa, còn xứ của anh của chị ở Châu Đốc, Cà Mau, không quê mùa à
? Các bạn trẻ đổi lại câu sáu chữ ở trên thành: "Bạc Liêu là xứ ruộng mùa", hoặc
"Bạc Liêu là xứ vui đùa" hay đổi thành "Bạc Liêu nước chảy lờ đờ" có vẻ đúng âm
vận thơ lục bát hơn, nhưng câu tám, trong hai câu lục bát này : "Dưới sông cá
chốt, trên bờ Tiều Châu" thì mọi người
đều thừa nhận sự mô tả dưới
sông cá chốt trên bờ Tiều Châu lại là đúng hoàn toàn trăm
phần trăm ở xứ Bồ Líu này.
Cuối năm 62 và đầu
năm 63, khi Ngọc vừa tốt nghiệp khóa 13 sĩ quan của Trường Bộ Binh Thủ Đức về
trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, chờ được chuyển ra đơn vị cơ hữu của
Sư Đoàn. Cả tuần lễ, ăn chực nằm chờ tại nhà vãng lai
sĩ quan của Sư Đoàn. Con người ăn vào rồi thế nào cũng
phải tống ra những chất thừa thải. Thời bấy giờ, khu câu lạc
bộ, nhà vãng lai cũng gần bờ sông, cầu tiêu được dựng lên ở ven sông. Lần
đầu tiên, xổ của nợ vừa đến mặt nước, hàng chục hàng trăm cá chốt ngoi lên đưa
râu quơ qua lắc lại, đớp mồi lia lịa, Ngọc sực nhớ đến câu thơ lục bát :
Bạc Liêu nước chảy
lờ đờ,
Dưới sông cá chốt,
trên bờ Tiều Châu
Cá
chốt sao mà nhiều thế, câu tám chữ đúng quá cỡ thợ mộc, dân Bồ Líu không còn cãi
vào đâu được. Bạc Liêu là
một tỉnh giàu có, nổi tiếng về nhiều phương diện, nào ruộng lúa, tôm cá và đặc
biệt là trái nhãn Vĩnh Châu, như là một lọai nhãn nổi tiếng ở tỉnh Hưng Yên Bắc
Việt, ngon thơm ngọt thanh. Cái đặc biệt và quan trọng nhứt mà nhiều dân xứ khác
biết đến Bạc Liêu là Công Tử Bạc Liêu, Bạch Công Tử, Hắc Công Tử nổi tiếng trong
những thập niên 30, 40.
Về
văn hóa, xứ Bạc Liêu với ông Sáu Lầu cha đẻ của Vọng Cổ Hoài Lang, tiền thân của
Cải Lương sau nầy. Nếu so sánh Bạc Liêu với Châu Đốc về mặt có nhiều cá chốt thì Bạc
Liêu chắc chắn là thua xa. Bạc Liêu có nhiều vùng nước
mặn và nước lợ vì ở ven biển. Còn Châu Đốc nơi nào cũng
nước ngọt quanh năm. Phải nói Bạc Liêu có rất nhiều
người Tàu mà đa số là người Triều Châu. Triều Châu chỉ
là một huyện của tỉnh Quảng Đông bao la, có tiếng nói riêng. Người Triều
Châu, tiếng nói khác một trăm phần trăm với người nói tiếng Quảng, Hẹ, Hải
Nam , Phước Kiến... và tiếng quan
thoại Bắc Kinh còn gọi là tiếng phổ thông. Tỉnh Bạc Liêu có ba giống dân hòa hợp
chung sống đó là người Việt, người Tiều và người Miên
(Khờ Me, Cam Bốt). Con cái lai gọi là "đầu gà đít vịt", nhiều thiếu nữ xứ Bồ Líu
mặn mà, đẹp, hấp dẫn.
Xứ
Bạc Liêu quả có nhiều cá chốt mà có một cách bắt cá chốt độc đáo nhứt lại ở xứ
Châu Đốc, có thể nói không nơi nào có cách bắt cá chốt này. Bắt cá chốt có hàng chục cách nhưng bắt cá
chốt chỉ sử dụng ba ngón tay, nắm râu mới là lạ. Trước
hết phải có một chiếc xuồng ba lá, cho nước vào khoang mũi để mép xuồng thấp
xuống "lé đé" mặt nước, nghĩa là cách mặt nước chừng vài phân. Mép xuồng càng gần nước càng tốt miễn xuồng không bị chìm là lý
tưởng nhứt.
Tại sao phải để mép
xuồng quá sát mặt nước, lý do giản dị là bắt cá chốt chỉ có ba ngón tay: cái, trỏ và giữa mà lại nắm râu, không phải một con cá
chốt mà nhiều khi có đến hai ba con dính cùng một lúc lại phải đưa nhanh vào
xuồng. Nếu mép xuồng cách xa mặt nước, cá chốt có thể bị rớt
lại xuống nước. Râu cá chốt trơn dễ vuột ra khỏi ba ngón tay nắm không được chặt, lại cần tốc độ nhanh cho cá chốt vào
xuồng. Nếu chậm có thể bị ngạnh cá chốt đâm vào tay và
cũng dễ để cá rơi rớt xuống nước.
Người bắt cá chốt cũng thường là phụ nữ vì
tính kiên nhẫn chịu đựng được lâu hơn đàn ông. Trẻ nhỏ cũng bắt cá chốt
rất tài. Hơn nữa công việc này rất nhẹ nhàng và cũng dễ
nên đàn ông thường ít làm.
Mồi bắt cá chốt là
cá nướng mà những con cá nướng đó thường là cá chết hoặc cá ăn không ngon như cá
éc, một loài cá vẫy, kỳ vi có một màu đen lợt, ăn có vị hơi hôi hoặc cá ngựa,
một loại cá thịt bở lại nhiều xương. Hai loài cá này lớn hơn
cá linh nhiều, dùng làm mồi nhử cá chốt được lâu. Vì vậy người ta lựa
những con cá này đem nướng chín vàng thơm phức để làm
mồi nhử cá chốt.
Mỗi người ngồi trên một xuồng riêng biệt,
cách nhau năm mười thước nếu có hai người cùng bắt cá chốt. Con cá nướng nằm gọn trong lòng bàn tay, bóp nhẹ vào cá để thịt và mỡ cá loang ra, cá chốt bắt
mùi bu tới càng ngày càng nhiều, râu nhô lên khỏi mặt nước tua tủa lắc qua lắc
lại rất vui mắt. Người ta không nhả mồi nhiều, nếu mồi nhiều quá cá ăn no lại lặn đi mất. Một con cá nướng làm mồi để bắt cá chốt
cũng dùng được nửa tiếng hoặc hơn. Một lần bắt cá chốt chỉ tốn chừng hai con cá
nướng là đủ. Người ta ngồi thật yên, chỉ sử dụng một tay mà chủ yếu chỉ có ba ngón tay cái, trỏ và giữa làm việc
cật lực thoăn thoắt. Khi nắm được râu cá chốt, có khi đến hai
ba con lận, đưa nhanh vào xuồng.
Cá
chốt không kịp giẫy giụa, giẫy giụa nhiều thế nào cá cũng rơi lại xuống nước,
làm sao mà nắm chặt được râu cá chốt. Bắt cá chốt bằng cách này,
không ai ngồi lâu quá được. Ngồi phải thật yên, không
nhúc nhích nhiều làm xuồng nghiêng lắc cá chốt sẽ sợ lặn đi. Một tay làm việc liên tục với tốc độ nhanh cả tiếng đồng hồ không
ngơi nghỉ một giây phút nào tay cũng sẽ rũ riệt. Hơn nữa bắt
được cá chốt nhiều đã mệt, còn phải làm cá và lại ban đêm nữa, có nhiều muỗi,
mất nhiều thời giờ. Vì những lý do đó, người ta thường bắt cá chốt chừng
một thùng thiếc thì tạm nghỉ để ngày hôm sau bắt tiếp.
Bắt cá chốt thường lúc trời mát hoặc chạng
vạng tối là lý tưởng nhứt. Cùng họ hàng với cá chốt có cá lăn, một loại
cá lớn ngon, nhứt là nấu canh măng chua thêm gia vị sả phi vàng, ăn ngon hết ý.
Làm cá chốt bằng cách dùng dao chấn từ kỳ trên, kỳ này rất nhọn và dùng dao cắt
đến hai ngạnh to dính với đầu, móc hết ruột ra. Cá rửa sạch
đem muối để làm mắm. Cá chốt nhỏ con người ta làm mắm. Món mắm cá chốt
ăn rất ngon, một con mắm vừa một miếng ăn. Mắm cá chốt
thường dùng để ăn sống, nghĩa là không kho như mắm cá
linh, cá sặc. Ở nhà quê, người ta thường ăn
mắm sống với cơm. Ăn mắm sống nên có nhiều rau
lại thêm có chuối chát, khế, khóm và có thêm ớt nữa ăn mới ngon. Ở quê Bà Bài
vào mùa có nhiều khoai lang, mùa bắp, người ta thường
nấu khoai lang hoặc bắp trái nấu chín ăn với mắm cá chốt, ngon tuyệt, ăn no bụng
mới thôi. Khoai mì nấu chín, người ta lại không ăn với
mắm cá chốt mà ăn với đường thốt nốt. Ngoài ra mắm cá chốt còn ăn với ổi chua rất bắt, cũng là một món nhậu bình
dân.
Món ăn ngon nhứt của
cá chốt, ngoài làm mắm ra, cá chốt làm sạch rửa kỹ, cá chốt có nhiều nhớt, loại
cá không vẫy như cá trê, kho khô rắc nhiều tiêu hoặc kho tộ thật sắc nước ăn với
cơm nóng hổi, vừa thổi vừa ăn, ngon quá xá là ngon. Cá chốt kho lạt hoặc kho còn
nhiều nước ăn không ngon, có thể nói là dở ẹc. Cá chốt cũng được làm món cá chiên tươi hoặc chiên
muối.
o
Bắt cá chốt bằng
cách nắm râu rất độc đáo kéo dài cũng gần cả tháng giữa tháng chín đến giữa
tháng mười, mùa nước xuống nước giựt, cá chốt nhiều và lớn bằng ngón tay. Bắt cá chốt bằng cách này vào lúc chạng vạng tối, mới
được nhiều cá mà lại phải thức với ngọn đèn dầu cá linh sáng lù mù, lại ngồi
chịu đựng cho muỗi đốt. Dù cổ, lưng mỏi đau cũng phải làm cho hết số cá chốt mới
bắt được, lại còn rửa đem đi muối để làm mắm và lựa cá lớn kho khô kho quẹt để
sáng sớm ăn mà ra đồng làm lụng. Cá
chốt làm mắm để đuôi, không cắt bỏ, không có đủ thì giờ để cắt đuôi.
Những loại cá nhỏ như cá chốt, cá linh, cá sặc, cá trèn nhỏ,
người ta làm mắm để nguyên đuôi. Còn những loại cá lớn như cá lóc, cá
bông, cá trê khi làm mắm mới cắt bỏ đuôi và kỳ vi.
Một cách bắt cá chốt khác, mấy ông thích làm
việc nầy. Khoét một cái
hố ở ven bờ sông, bờ rạch, dài chừng tám tấc, miệng rộng chừng bốn tấc, phần còn
lại rộng hơn có hình gần
như
tròn. Cái hố nầy
đào để nước lớn, thủy triều lên, ngập chừng bốn tấc.
Người ta dùng đầu, ruột cá chốt vừa làm tối
hôm trước, đem nấu có rất nhiều nước để làm mồi nhử cá chốt vào hố đào sẵn để
xúc bắt. Múc nước mồi cùng với xương đầu cá chốt rả ra đổ vào phần rộng tròn
phía trong cái hố nhử cá chốt vào ăn. Việc nầy cũng thực hiện vào buổi
tối hoặc sáng sớm, còn lờ mờ. Nhìn thấy râu cá chốt quơ qua quơ lại trong hố
ăn mồi, càng lúc càng nhiều. Người ta
dùng một cái rổ thưa, miễn sao cá không bị lọt là được, để xúc cá. Dùng
rổ chận miệng hố, một tay giữ rổ, một tay cầm một miếng
tre, dẹp ngang chừng ba phân, dài bảy, tám tấc, khua khuấy nước để cá chạy ra
miệng hố. Trong lúc đó, cái rổ chận ở miệng hố được ấn nghiêng
xuống về phía ngoài để cá chạy vô rổ, người ta lấy rổ lên nhanh.
Mỗi lần xúc rổ như
thế có thể bắt được vài trăm gram hoặc nửa ký cá chốt. Người
ta thường đào ba bốn cái hố để bắt cá chốt, hố nầy vừa nhử mồi xúc bắt xong, qua
hố khác cũng làm y chang như vậy. Khi giáp vòng, trở
lại nhử xúc cá ở cái hố thứ nhứt. Mỗi tối xúc cá chốt
chỉ ba vòng cũng có hàng chục ký lô cá chốt làm mệt nghỉ. Mỗi hố cách
khoảng chừng năm mét.
Mấy bà mấy cô thì lo đi nắm râu cá chốt, cánh
mấy ông đi xúc cá chốt tại những cái hố, rồi cả nhà già trẻ cùng xúm làm cá chốt
đến khuya lơ khuya lắc rất cực. Sáng hôm sau còn ra đồng,
làm việc đồng áng. Sức chịu đựng cực khổ của người dân
quê xứ mình thật tuyệt diệu rất đáng bái phục.
Ai chưa ăn mắm cá
chốt, thử ăn xem vừa ngon vừa khoái khẩu, khi nào mê món mắm này cũng như các
thứ mắm khác mới thấm thía câu nói của dân quê: Ăn mắm thấm về lâu, và tình
nghĩa của người dân quê cũng thấm về lâu vậy đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét