CÂU
RÊ
TRẦN VĂN
Câu rê không phải là câu dê hoặc thả dê o
mèo. Một cách câu độc đáo khác của người dân quê. Câu rê chỉ câu được cá bông và cá lóc. Cách
câu cá nầy chỉ dành riêng cho giới mày râu vì phải dùng sức, phái yếu và trẻ con
khó mà đứng câu lâu được. Cái cần câu vừa dài vừa nặng, bằng cây tầm vông
tròn bằng nắm tay, thon dài đến năm, sáu thước, ngọn
cần câu nhỏ, mềm, cong và dẻo. Lựa được một cây tầm vông làm
cần câu rê mất nhiều thì giờ. Tìm cho được một cây cần
câu như ý muốn rất khó, cây phải già lại dẻo nữa và có kích thước lý
tưởng. Người ta phải đi xa để tìm mua cho được một cây
tầm vông vừa ý. Róc hết mắt, chặt ngọn, ngắm nghía kỹ, chọn lựa chiều dài thích
hợp, dùng cưa nhỏ cắt bỏ phần gốc. Dùng lửa ngọn, hơ và uốn cây cần câu
theo ý muốn của người thợ câu. Hơ lửa, xông khói làm
cháy hết những lông non của cây tầm vông cũng vừa uốn, vừa phòng ngừa mối mọt.
Cây xông khói, một cách trừ mối mọt rất hiệu nghiệm mà người
dân quê thường làm cho bất cứ loại cây nào.
Người câu rê quý cần câu như một món gia
bảo. Hết mùa câu rê, cần
câu được đưa lên gác ở cạnh chuồng bò hoặc trên giàn nhà bếp cất giữ, hai nơi
nầy cũng thường có khói nên sự bảo quản được an toàn
hơn. Một cần câu rê được bảo quản kỹ có thể dùng năm, mười
năm. Có người còn đánh bóng, đánh vẹc-ni cần câu rê và
nâng niu như một đứa con cưng.
Ở chuôi cán cần câu
rê, người ta lắp vào một cái đế có "chảng" hai. Cái chảng hai
phải lựa, tìm kỹ để sao cho vừa với bắp vế (đùi) của người thợ câu); nhỏ quá,
bắp vế không lọt vào chảng hai, rộng quá, khi rê cần câu không vững hay xê dịch
cũng không thuận lợi. Cái chảng hai thường chọn những
cây lồng mứt, cây me chua hoặc những cây chắc mà mối mọt ít dòm ngó tới để dùng
được lâu bền.
Nhợ câu, chỉ thường
se to và chọn loại dây chỉ thật chắc, đủ sức chịu đựng giựt những con cá bông to
ba, bốn ký lô. Dây câu dài trên dưới mười mét. Người thợ câu
giỏi dùng nhợ câu dài vì câu khó hơn, nhưng có cái lợi là rê lưỡi câu được một
khoảng dài có nhiều hy vọng được cá táp mồi hơn. Lưỡi
câu rê cũng làm đặc biệt hơn, khác hơn lưỡi câu giăng, dài ba, bốn
phân.
Địa
điểm câu rê thích
hợp nhứt là những vùng nước đọng, không chảy, có cỏ nhiều nhưng lại có những
mảng trống mà cỏ không rậm, không cao. Không có cỏ, cá bông cá
lóc không trú ngụ hoặc làm ổ đẻ, mà cỏ rậm lại cao, không có mảng trống làm sao
lưỡi câu khi rê qua rơi xuống mặt nước được. Địa điểm
dùng để câu rê phải chọn kỹ mà là nơi có nhiều cá nữa. Có nhiều chỗ câu
cả nửa tiếng đồng hồ, không được con cá nào, người ta lại xách giỏ và vác cần
câu đi tìm nơi khác. Giờ câu lý tưởng nhứt là lúc chạng vạng đến nửa khuya hoặc
sáng sớm,
trời còn lờ
mờ. Buổi tối lại có mưa lất phất là thời điểm tốt nhứt
để câu rê.
Từ ngữ "rê" đi sau
chữ câu cũng cho ta hình dung được cách câu nầy. Rê là kéo từ bên nầy sang bên
kia, kéo qua kéo lại từ từ, không nhanh lắm mà không
chậm lắm. Sau từ ngữ câu, có nào: câu rê, câu cắm, câu giăng, câu quăng. Chỉ
thiếu có câu khách mà các ả giang hồ hay các tay buôn
thường sử dụng.
Câu giăng là cách
bắt cá ăn câu được nhiều nhứt. Những thẻ câu dài chừng
hai chục mét có đến mấy chục lưỡi, người ta móc mồi bằng con trùn hoặc cá linh
con để bắt cá lóc, cá bông, cá trê, cá leo, cá trèn, cá
lăn... Một người dân quê có thể một đêm thả đến gần một chục
thẻ câu ở ven bờ sông, bờ rạch hoặc trong đồng nội. Hai
đầu thẻ câu được buộc chặt vào cây sào bằng cây tầm vông rồi người ta mới móc
mồi. Một đêm, thăm câu chừng hai, ba lần để bắt cá còn
sống, nếu để lâu quá, cá chết bán không được giá, chỉ có để làm khô, làm
mắm. Thăm câu còn có mục đích, lưỡi câu nào hết mồi móc
mồi tiếp.
Người ta còn giăng câu bằng mồi dừa để bắt
tôm. Dừa cứng cạy, xắt từng miếng nhỏ chừng một, hai phân vuông móc vào
lưỡi câu, cách chừng một hay hai tiếng đồng hồ, bơi xuồng đến chỗ sào cắm giăng
câu tôm. Nhờ ánh sáng của trăng sao, người ta dùng bàn tay trái giở nhẹ sợi dây câu, thấy tôm từng bầy hoặc từng con
đang bu ăn mồi dừa. Tay phải cầm vợt lưới to
bằng miệng cái thúng, xúc thật nhanh nhưng rất nhẹ nhàng không làm động mạnh để
tôm đang ăn mồi các lưỡi câu khác kế cận không sợ mà
lặn đi.
Chừng vài thẻ câu, gặp chỗ có tôm nhiều, một
đêm cũng có thể bắt đến chục ký lô như chơi. Nhưng giăng câu tôm rất
mệt vì phải thức cả đêm vừa lạnh vừa tốn rất nhiều sức. Còn giăng câu cá,
người ta chỉ thăm câu chừng hai lần lúc chập tối và lúc khuya, sau đó để tới
sáng mới đi cuốn câu.
Cá
chết thì làm mắm làm khô.
Cá sống rộng để bán ở chợ. Còn quăng câu, cũng dùng
những thẻ câu giăng, nhưng người ta thường làm ban ngày hoặc sáng sớm, hay chiều
tối ở ven sông trước cửa nhà. Ở một đầu nhợ câu cột nửa cục
gạch hoặc một thanh sắt nhỏ đủ để ném dây câu ra sông và nhận chìm xuống mặt
đất. Câu quăng dùng mồi trùn, đôi khi người ta cũng
dùng mồi mắm xé nhỏ. Câu quăng chủ yếu là bắt cá chốt, cá lăn, cá trê và các loại cá nhỏ. Câu quăng
chỉ dùng bắt cá để ăn, không nhiều để đi bán.
Câu cắm, dùng những
cành tre nhỏ, buộc nhợ câu độ chừng tám tấc, lưỡi câu lớn loại lưỡi câu cá lóc,
người ta thường móc mồi bằng một con cá linh nhỏ còn sống, bơi lội để nhử cá lóc
cá bông ăn mồi. Câu cắm thường là ban đêm. Ở nhà quê, một nhà cũng có chừng một chục cần câu cắm, đôi khi cũng
dùng mồi trùn, loại trùn hổ to con để bắt cá trê. Cần
câu được cắm chặt xuống đất, cá dính câu khó vùng vẫy lôi cần câu đi
được. Câu cắm cũng để bắt cá ăn trong gia đình;
nếu nhiều, cá lại chết chỉ có làm khô làm mắm. Câu cắm, trẻ
nhỏ, phụ nữ, người lớn tuổi đều làm được.
Trở lại cách câu rê, người thợ câu đứng chàng
hảng hoặc đứng cách nào đó đỡ mỏi chân, đế cần là một cái chảng hai đặt lên bắp
vế vừa vặn. Lưỡi câu thường dùng một lưỡi, có người dùng đến hai hoặc ba lưỡi
kết thành một chùm. Mồi là một con nhái mén (nhỏ), lọt sâu vô khỏi ngạnh,
người ta còn dùng một đoạn cỏ ống nhỏ móc vào mũi lưỡi câu nhằm mục đích khi rê,
lưỡi câu không bị dính, vướng mắc vào cỏ hay cây nghể, lục bình, sậy, lác có rất
nhiều ở những nơi câu rê.
Người ta quăng lưỡi
câu thật xa hết tầm của sợi nhợ, người khỏe mới quăng xa được, thường quăng sang
bên trái vì tay phải dùng vào việc này. Tay trái nắm
chặt cần câu và nghiêng ngọn cần câu vào hướng trái để tiếp sức cho sợi nhợ câu
được căng tối đa. Từ điểm xuất phát đó, người ta rê
lưỡi câu từ từ và điều khiển thế nào cho lưỡi câu rơi vào những chỗ có lỗ trống
hoặc cỏ thưa để cá có thể táp mồi được. Mắt nhìn chăm chú quan sát sự di
chuyển của lưỡi câu, hai tay cũng nhịp nhàng rê cần câu đi từ trái sang phải rồi
lại từ phải sang trái, miệng thì làm thành tiếng "bặp bặp" dụ cá, nhử, nhái
tiếng cá táp mồi.
Câu rê rất mệt, dùng
nhiều sức, tay chân mắt miệng đều làm việc nhịp nhàng
với nhau. Người ta thích câu rê, cũng là một cách tìm cảm giác
mạnh. Câu rê được toàn là cá bông hoặc cá lóc to bành ky vì chúng đang làm ổ đẻ. Thời điểm cá
bông lâm bồn thì phải biết, dữ lắm, lại có đủ cặp. Lưỡi
câu rê qua rê lại và có những tiếng kêu bặp bặp, chúng tưởng đồng bọn đang ăn,
chúng háo hức táp mồi, thế là toi mạng. Người thợ câu
giựt nhanh lên bờ, có khi con cá chưa dính sâu vào ngạnh rơi xuống đất.
Cá
mà không có nước thì chỉ có chết thôi, cá được bỏ vào giỏ lẹ làng và người thợ
câu tiếp tục câu, rê lại chỗ vừa mới câu được một con. Chỉ một thời gian phù du
ít ỏi thế nào cũng bắt được con cá thứ hai cho đủ cặp lứa đôi. Một địa điểm câu rê được chừng một cặp cá, người ta dời lại một chỗ
khác. Đặc tính của loài cá lóc cá bông, nhứt là cá bông quá dữ, không
thích ở gần láng giềng hàng xóm mà phải ở đơn lẻ từng cặp, cách nhau chừng một
hai chục mét để chia vùng hoạt động, trị vì các loài cá trắng nhỏ
khác.
Đi
câu rê không được nhiều cá, lại cực nhọc vất vả, bị muỗi mòng châm đốt, nhưng có
nhiều nông dân mê thích.
Giống như nghề đi "gác" cu, một việc làm mất nhiều thời giờ chẳng có lợi là bao,
mất cả buổi cả ngày cũng chỉ bắt được vài con cu. May mắn gặp con cu gáy hay,
nghe tiếng cu gáy cũng đỡ ghiền. Còn cu gáy dở chỉ có làm thịt
nhậu.
Câu rê và gác cu của người dân quê như là một
đam mê, ghiền, khó bỏ được. Âu cũng là một cái "ngu" thứ ba theo nghĩa thông thường, không có lợi lộc cao.
Người đời có câu :
Trên đời có bốn cái
ngu
Làm mai, lãnh nợ,
gác cu, cầm chầu !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét