Thoại Ngọc Hầu, công danh sự
nghiệp
và nỗi án oan .
LÂM THANH QUANG
Nhân kỹ niệm 180 năm này mất của Nguyễn văn Thoại (1761-1829) tước Thoại
Ngọc Hầu còn được gọi là Bảo Hộ Thoại : một danh tướng của triều Nguyễn đã có
công trong việc bảo vệ và khai phá vùng đất An Giang vào ngày mùng 6 tháng 6 âl;
ngày 25/7/2009 tại thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang một cuộc hội thảo về thân thế
và sự nghiệp của ông đã được tổ chức với sự góp mặt của nhiều học giả từ hơn 30
tỉnh thành về đây tham dự. Bên cạnh đó một lễ hội đường phố hoành tráng để đưa
linh vị của ông từ đình thần Châu Phú đến sơn lăng nằm dưới chân núi Sam cũng đã
được thực hiện lúc 17 giờ ngày 26/7/2009. Đây là tấm lòng của của người dân An
Giang đối với một vị công thần đã để lại cho người đời sau những công trình đã
đi vào lịch sử như đào kinh Thoại Hà, Vĩnh Tế và xây dựng con đường Châu Đốc tân
lộ kiều lương nối liền từ Châu Đốc đến núi Sam ... ; đem lại ấm no cho dân chúng
ở vùng đất Tây Nam bộ ngày nay.
Mở đầu cuộc hội thảo, nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký hội Sử
học Việt Nam đã đưa ra quan điểm :
“ Để đánh giá chính xác một nhân vật lịch sử phải đặt mình vào hoàn cảnh
xã hội thời bấy giờ. Cần phải đánh giá những mặt tích cực lẫn tiêu cực của nhân
vật đó. Tránh trường hợp chỉ nhìn thấy một mặt mà không nhìn thấy mặt kia, dễ
dẫn đến trường hợp làm sai lệch lịch sử...”
Hội thảo xoay quanh 4 chủ đề chính : thân thế của Thoại Ngọc Hầu khi lưu
lạc từ làng An Hải huyện Diên Phước tỉnh Quãng Nam đến cù lao Dài tỉnh Vĩnh
Long, nhân cách của ông trên cương vị một nhà quân sự, ngoại giao và quản lý,
những công trình để lại cho người đời sau và nỗi án oan mà ông phải chịu đựng
hơn 95 năm.
Tuổi thơ của Nguyễn văn Thoại đã trãi qua những năm tháng loạn lạc trong
cuộc chiến giữa chúa Nguyễn và Tây Sơn nên phải lưu lạc từ Quãng Nam đến cù lao
Dài bên dòng sông Cổ Chiên tỉnh Vĩnh Long để lập nghiệp. Dầu không tốt nghiệp
khoa cử nhưng ông đã có một ý chí phấn đấu và tự học rất cao. Điều đó được thể
hiện qua những lần đi sứ sang Lào, Xiêm , lảnh ấn bảo hộ Cao Miên cùng với những
công trình đào kinh Thoại Hà, Vĩnh Tế và những bài bia ký ghi lại việc đào kinh
Thoại Hà và Vĩnh Tế... Nổi bật nhất là bài Tế Nghĩa Trũng Văn tỏ lòng biết ơn
những nghĩa sĩ đã hy sinh trong việc đào kinh Vĩnh tế.
Năm 16 tuổi đã theo Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn,ông đã từng được phong
là Thượng đạo Đại Tướng quân vào năm 1799. Do tính tình rất ngay thẳng và rất
trọng nghĩa khí nên ông dễ làm cho nhiều người mến nhưng cũng làm mất lòng một
số người. Tình bạn của ông cùng với Thượng tướng Trần Quang Diệu của Tây Sơn
cũng là một giai thoại mà người đời sau thường truyền tụng.
Chuyện xưa kể rằng lúc nhỏ ông và Trần Quang Diệu là bạn láng giềng chơi
thân với nhau. Khi hai người đang tắm trên sông Hàn thì gặp một viên quan sở tại
đi ngang qua. Nguyễn văn Thoại tinh nghịch té nước vào viên quan đó nên ông này
tức tối nhảy xuống đánh Thoại. Trần Quang Diệu vốn giỏi võ nên xông vào tiếp cứu
và đánh viên quan này một trận tơi tả. Cũng vì việc này mà cha mẹ Nguyễn văn
Thoại là ông Nguyễn văn Lượng và bà Nguyễn thị Tuyết mới cùng các con trốn vào
Cù lao Dài trên sông Cổ Chiên ( Vĩnh Long) và gia đình Trần Quang Diệu cũng bỏ
xứ về quê ngoại ở làng Trà Khê, nay thuộc huyện Ngũ Hành Sơn, sau đó đầu quân
cho Tây Sơn. Khi gặp lại nhau ở hai bên chiến tuyến vào năm 1801, lúc từ Vạn
Tượng đánh vào Phú Xuân, nghe tin Trần Quang Diệu từ Qui Nhơn cầm binh ra tiếp
cứu ; Nguyễn văn Thoại giao binh quyền cho phó tướng là Lưu Phước Tường và bỏ
vào Gia Định. Vì vậy mà ông bị Nguyễn Ánh bắt tội không có lệnh của vua mà tự
tiện về, giáng xuống làm cai đội cai quản đạo Thanh Châu.
Khi vua Gia Long thống nhất đất nước vào năm 1802, trong dịp khen thưởng
những người có công, ông cũng chỉ được phong làm Khâm Sai Thống binh cai cơ sau
mới thăng làm Chưởng cơ. Mặc dầu vậy ông vẫn một mực trung thành với vua mà
không hề oán than, phiền trách. Mãi đến mấy năm sau khi ra Bắc tham gia thu
phục Bắc thành, ông mới được phong chức Trấn thủ Bắc Thành và trấn thủ Lạng Sơn
rồi đến năm 1808 mới về trấn thủ Định Tường. Năm 1813 ông đưa Nặc Ông Chân về
nước và ở lại nhận chức Bảo hộ Cao Miên. Bốn năm sau ông mới được về trấn thủ
Vĩnh Thanh ( 1).
Khi về trấn thủ Vĩnh Thanh, nhận thấy nhân dân vùng An Giang phải gánh
chịu trận lũ lụt hàng năm kéo dài đến 6 tháng, đời sống cơ cực nên ông mới xin
vua Gia Long cho đào hai con kinh Thoại Hà và Vĩnh Tế để tháo nước ra biển Tây,
giúp cho việc đi lại dễ dàng và rửa phèn cho vùng tứ giác Long Xuyên để người
dân yên tâm sinh sống.
Kinh Thoại Hà được khởi công vào đầu năm 1818 nối liền rạch Tam Khê (nay
là sông Long Xuyên ) với ngọn rạch Giá Khê của Rạch Giá dựa theo những lạch tự
nhiên đã có từ trước nên công việc được tiến hành thuận lợi. Tổng chiều dài kinh
này trên 30km nhưng phần phần đào mới chỉ chiếm phần nhỏ, còn lại chỉ là nạo vét
và mở rộng chiều ngang. Vì vậy với số lượng nhân công đào khoảng 1500 người
nhưng chỉ trong hơn 1 tháng đã hoàn thành. Đây là một công trình thủy lợi và
giao thông dầu tiên trên đất An Giang và là một cuộc tổng diễn tập cho việc đào
kinh Vĩnh Tế vốn qui mô và gian khổ hơn nhiều.
Khi công trình hoàn thành, vua Gia Long khen ngợi và cho phép ông lấy
tên kinh mới đào là Thoại Hà và núi Sập đổi tên là Thoại sơn. Để đánh dấu công
trình mang nhiều ý nghĩa này, năm 1822 ông cho khắc bia Thoại Sơn và làm lễ dựng
bia tại miếu sơn thần trên triền núi .
Mặc dầu kinh Vĩnh Tế được đào sau (năm 1819) nhưng với chiều dài hơn 90
km nối liền từ Châu Đốc đến Giang Thành, Hà Tiên lại phải qua nhiều núi non nên
chiếm rất nhiều thời gian và công sức. Theo BS Châu Hữu Hầu nghiên cứu về kinh
Vĩnh Tế thì thời gian thực sự để đào kinh này chỉ hơn 10 tháng với tổng chiều
dài phải đào là 37.190m. Phần còn lại là chiều dài sẵn có của sông Giang Thành
hơn 42km và phần đầm , lung sẵn có trong tự nhiên như đầm Trích...
cũng
hơn 10km. Thời gian
hoản đào là 43 tháng do nhiều nguyên nhân khác nhau như : Vua Minh Mạng lên
ngôi, dịch tả xuất hiện(2), loạn Sải Kế(3), dân Cao Miên bị đói, mùa nước lũ của
sông Cữu Long(4)..... Tổng số lượt nhân công trên 90.000 người nhưng lần huy
động đông nhất cũng chỉ trên 45.000 bao gồm cả dân quân người Việt và Cao
Miên.
Việc đào kinh Vĩnh Tế mang một tầm vóc chiến lược lớn lao bao gồm về
quân sự,giao thông lẫn thủy lợi. Về mặt quân sự, nó là vành đai biên giới ngăn
cách giữa Việt Nam và Cao Miên đồng thời giúp cho thành Châu Đốc và thành Hà
Tiên có thể tiếp cứu lẫn nhau khi có giặc. Việc đào kinh Vĩnh Tế giúp cho dân
qui tụ về đây sinh sống dọc theo hai bên bờ kinh và thành lập 5 ngôi làng từ
Châu Đốc đến Giang Thành là Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia và Vĩnh
Điều. Một trong những chiến lược quan trọng của kinh Vĩnh tế chính là xã nước lũ
về biển Tây, rửa phèn cho vùng Tứ Giác Long Xuyên. Công trình này vẫn còn tác
dụng đến ngày nay và được tiếp nối với sự chỉ đạo của cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt
cho đào các kinh T4, T5, T6 để chia nước cùng với kinh Vĩnh Tế xả lũ ra biển
Tây. Tháng 5 năm 2009, kinh T5 được UBND tỉnh An Giang thống nhất đặt tên là
kinh Võ văn Kiệt để tưởng nhớ công lao của ông đối với đất An Giang.
Đến năm 1824 kinh được hoàn thành và được mang tên bà Châu thị Tế chính
thất của ông là người có công rất lớn trong việc quản lý khâu hậu cần phục vụ
cho việc đào kinh.Có tư liệu cho rằng tên Vĩnh Tế được đặt trước khi đào con
kinh bởi vì kinh này đã có kế hoạch trước đó và chính Hiệp Trấn Hà Tiên lúc bấy
giờ là Mạc Công Du nhận nhiệm vụ khảo sát và vẽ lại bản đồ để gửi về Phú Xuân
trình cho vua Gia Long xét duyệt.
Việc đào kinh được thành công tốt đẹp nhưng hơn 6000 nhân công đã bỏ
thây nơi miền hoang dã. Phần lớn chết vì bệnh dịch tả vào năm 1820-1823, số còn
lại bị tai nạn trong lúc lao động hoặc lâm cảnh “ hùm tha, sấu bắt”. Những người
chết được chôn dọc theo hai bờ kinh Vĩnh Tế đến nay đã mất dấu tích. Một số khác
được qui tập về chôn ở hai bên lăng Thoại Ngọc Hầu bao gồm những gia tướng và
một số đội trưởng chỉ huy công trình. Ông cho xây miếu Âm hồn dưới chân núi Sam
cách lăng hơn 500m để thờ những nghĩa sĩ đã hy sinh và làm bài Tế Nghĩa trũng
văn để tri ân những nghĩa sĩ này. Đây là một áng văn hay làm cảm động lòng người
được truyền tụng đến ngày nay.
.....Đào kênh trước mấy kì khó
nhớ,
Khoác nhung y chống đỡ biên
cương.
Xông pha máu nhuộm chiến trường,
Bọc thây da ngựa gởi xương xứ
này.
...... Giờ ta vâng lệnh bệ
rồng,
Dời ngươi an táng nằm chung chốn
này.
Chọn đất tốt thi hài an ổn,
Cảnh trời thanh vui nhộn cùng
nhau.
Hằng năm cúng tế dồi dào,
Tràn trề lễ trọng dám nào để
vơi....
Kinh Vĩnh tế sau khi đào xong được vinh dự khắc vào Cao đỉnh (5) : một
trong những cữu đỉnh đặt trước ngọ môn Huế. Thoại Ngọc Hầu cũng cho khắc bia
Vĩnh Tế để ghi lại công trình này. Tiếc rằng nguyên bản của bia đã bị thất lạc
chỉ còn lại bia mới được phục chế đặt tại Long đình trước sân lăng.
Sau khi kinh Vĩnh Tế hoàn thành cũng là lúc hai bà vợ của ông qua đời (
bà Trương thị Miệt mất năm 1821 còn bà Châu thị Tế mất năm 1826) chỉ còn lại
mình ông. Ông cho xây dựng sơn lăng dưới chân núi Sam để an táng cho hai bà và
cũng để làm nơi an nghỉ của mình sau này. Công trình này bắt đầu khởi công vào
năm 1824 và hoàn thành vào năm 1828. Đây là một công trình kiến trúc đậm nét
văn hóa của lăng tẩm cố đô Huế , được bố trí hài hòa với cảnh quan chung quanh.
Bước lên những bậc thang được làm bằng đá ong được mang từ Biên Hòa vào là một
khoảng sân rộng và phẵng rồi mới đến hai cửa lăng nằm ở hai bên. Lăng được bao
bọc bởi một lớp tường thành dày hơn 1m, cao khoảng hơn 2m làm bằng chất liệu hỗn
hợp vôi, cát, mật đường và nhựa ô dước mặc dầu trãi qua gần 200 năm nhưng vẫn
còn nguyên vẹn. Ngôi mộ của ông nằm ở chính giữa sau bức bình phong còn hai vị
phu nhân ở hai bên : nhìn từ trước vào thì mộ chính thất Châu thị tế nằm ở bên
trái còn thứ thất Trương thị Miệt nằm phía bên phải. Trong vòng thành sân lăng
còn có 11 ngôi mộ bằng ô dước của những thân nhân theo ông hy sinh trong thời
gian đào kinh. Có tư liệu cho rằng đây là mộ của gánh hát bộ Quãng Nam đã chết
trong khi phục vụ cho dân binh đào kinh Vĩnh Tế. Tuy nhiên đây mới chỉ là phỏng
đoán chứ chưa được kiểm chứng chính xác.
Ở hai bên lăng còn có gần 100 ngôi mộ lớn nhỏ của các nghĩa sĩ chết
trong lúc đào kinh Vĩnh tế được qui tập về đây. Tiếc rằng môt số ngôi mộ ở bên
phải lăng vào đầu thập niên 70 thế kỷ 20 đã bị phá bỏ khi xây dựng lăng miếu
Khổng Tử còn phía bên trái trở thành nơi trưng bày cây cảnh um tùm khiến khách
tham quan khó tìm lại những hình ảnh của những ngôi mộ xưa.
Năm 1826-1827, ông huy động gần 4500 nhân công đắp con lộ từ Châu Đốc (
bắt đầu từ đình Châu Phú ngày nay ) đến núi Sam dài 5km để người dân có thể đi
lại dễ dàng và tránh lũ trong mùa nước nổi. Con đường này qua 4 cây cầu bằng ván
có thể cho xe ngựa qua được. Đến nay chỉ còn lại 2 cây cầu tồn tại là cầu số 2
và cầu số 4 còn hai cây cầu kia ( một ở đầu đường Cử Trị và một ngã tư quốc lộ
91) thì bị lấp từ thời Pháp thuộc. Sau khi con đường hoàn thành ông đặt tên là
Châu Đốc Tân lộ kiều lương và lập bia ký dưới chân núi Sam để kỹ niệm. Bia này
đến nay đã bị thất lạc không còn dấu tích.
Trong những năm cuối đời , mặc dầu đã mõi mệt nhưng ông cũng cố gắng
hoàn thành con đường từ Châu Đốc đến Lò Gò để người dân có thể từ Châu Đốc đi
thẳng đến biên giới Cao Miên.
Ông mất vào ngày mùng 6 tháng 6 âl năm 1829 tại thành Bảo Hộ Châu Đốc
(6). Linh cữu của ông được quàn tại thành hơn 1 tháng đề các quan chức và nhân
dân các nơi đến phúng điếu chia buồn, sau đó mới đem an táng tại lăng bên cạnh
hai bà vợ đã mất trước đó.
Sau khi ông mất thì xãy ra một oan án kéo dài đến 95 năm mới được giải
oan. Sự việc này cũng được các nhà nghiên cứu phân tích rất rõ trong buổi hội
thảo. Vào khoảng năm 1830 Lê văn Duyệt sai Hình tào Võ Du đi kiểm tra tình hình
dân chúng ở biên giới. Võ Du không tra xét kỹ càng lại về tâu lại với Lê văn
Duyệt rằng :
- Trong thời gian làm Bảo hộ Cao Miên hay tự quyền quyết định, xen vào
nội bộ của Cao Miên khiến vua Cao Miên bất bình.Ông lại bắt dân phu Cao Miên đi
lấy gỗ táu đem nộp mà không trả tiền khiến dân tình thán oán.
- Khi cho dân chúng khai hoang lập ấp ở hai bờ kinh Vĩnh tế lại tự tiện
xuất của kho công ra cho dân chúng vay mượn, sau đó mới xuất của nhà để trả lại.
- Lợi dụng việc công để làm việc riêng như việc đắp đường từ Châu Đốc
đến Núi Sam để đưa linh cữu của vợ là Châu thị Tế đến chôn tại lăng.
Nghe Lê văn Duyệt báo về với triều đình, vua Minh Mạng không tra xét rõ
đã vội vàng quyết định giáng ông xuống 5 cấp từ Chánh Nhất phẩm xuống Tòng tam
phẩm (7), tịch thu hết tất cả ruộng đất có được trong lúc đi khai phá. Hai con
trai là Nguyễn văn Tâm ( con bà Châu thị Tế ) và Nguyễn văn Minh (con bà Trương
thị Miệt) mất chức tập ấm và sợ bị tội đành phải trốn về quê.
Các công trình của Nguyễn văn Thoại làm lúc đương thời cũng đành phải bỏ
dỡ như miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam, chùa Tây An.....
Mấy năm sau sự việc được xét lại mới thấy rằng những chứng cứ đưa ra
hoàn toàn vô lý, không rõ ràng :
-Với vai trò là một sứ thần của nhà Vua trông coi việc Bảo hộ Cao Miên
vì đường sá xa xôi cách trở không thể mỗi chuyện gì cũng phải báo về. Vua Minh
Mạng cũng đã có thư khuyên nhủ Nguyễn văn Thoại hãy cố gắng hoàn thành nhiệm vụ,
đừng chán nãn mà xin từ chức. Thư này hiện nay vẫn còn được lưu trữ tại gia đình
ông Nguyễn Khắc Mi và bà Nguyễn Hồng Diệp tại thị xã Châu Đốc cùng với sắc phong
của vua Minh Mạng cho cha và mẹ của Nguyễn văn Thoại là ông Nguyễn văn Lượng và
bà Nguyễn thị Tuyết. Gia đình này là một chi nhánh của dòng họ Nguyễn Khắc ở cù
lao Dài là hậu duệ của bà Nguyễn thị Tuyết. Việc cho là ông lợi dụng dân phu Cao
Miên đi lấy gỗ táu cũng được sự xác nhận của vua Cao Miên là người dân phu đã
nhận đủ tiền và gạo. Nếu ông tỏ ra chuyên quyền độc đoán trong việc bảo hộ Cao
Miên thì tại sao vua Cao Miên lại có nhã ý dâng 3 phủ Lợi ỷ Bát, Chân Sâm, Mật
Luật để cảm ơn ông ? Ông không dám nhận mà tâu rõ về triều đình và vua Minh Mạng
quyết định chỉ nhận đất của 2 phủ Chân sâm và Mật Luật còn tiền thu thuế của
người dân thì giao về cho vua Cao Miên giữ. Chính vì việc này mà vua Minh Mang
nghi ngờ ông cũng cố quyền lực của mình nơi biên giới nên mới để xãy ra vụ án
oan.
- Việc ông tự ý xuất của kho công để cho người dân khai hoang vay sau đó
mới đem của nhà trả lại cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân như con của ông.
Khi người dân mới bắt đầu khai khẩn, thu hoạch chưa được gì thì làm sao ông nở
đứng nhìn người dân chết đói ?
- Việc đắp đường Châu Đốc Tân lộ kiều lương bắt đầu khởi công vào tháng
chạp năm 1826 tức sau ngày bà Châu thị Tế mất hơn 2 tháng thì làm sao có thể nói
rằng ông lợi dụng việc công để làm việc riêng. Vả lại kinh phí đắp đường này là
do bổng lộc của các quan địa phương cùng nhân dân đóng góp chứ không lấy của
công một dồng nào.
Mặc dầu sự thể đã rõ ràng và Hình bộ xử Võ Du tội đồ về tội cáo gian
nhưng vua Minh Mạng vẫn nương nhẹ hình phạt bằng hình thức cách chức và phát đi
Cam lộ gắng sức làm việc để chuộc tội. Riêng đối với Nguyễn văn Thoại vẫn giữ y
mức án cũ vì đã sai dân Phiên làm việc riêng, sửa mộ, đắp đường. Điều này chứng
tỏ rằng việc làm của vua Minh Mạng là có chủ đích, sợ rằng sẽ xãy ra một Lê văn
Duyệt thứ hai (8). Ngoài ra mối nghi kỵ của vua Minh Mạng về mối quan hệ giữa
Nguyễn văn Thoại và Thượng tướng Trần Quang Diệu của Tây Sơn vẫn còn đó ,
“ thà giết lầm hơn bỏ sót” nên nhà vua phải xuống tay mặc dầu vẫn
biết rằng ông bị cáo gian.
Mãi đến năm 1924 dưới triều vua Khải Định, triều đình mới quyết định
truy phong cho ông làm Trung Đẵng Phúc thần làng Vĩnh Tế. Đình này mới được xây
cất và sửa sang lại để trở thành một di tích cấp tỉnh như ngày nay.
Đại diện của hậu duệ Nguyễn văn Thoại đến từ Đà Nẵng đã tặng thị xã Châu
Đốc bức ảnh nhà kỹ niệm Thoại Ngọc Hầu tại làng An Hải Tây, huyện Sơn Trà, thành
Phố Đà Nẵng mới vừa hoàn thành vào tháng 5 năm 2009 này với kinh phí hơn 7 tỉ
đồng. Một tin vui nữa là ngôi mộ của Thượng Tướng Trần Quang Diệu cũng đã được
đưa về an táng tại đây. Cũng tại buổi hội thảo này hai hậu duệ của Nguyễn văn
Thoại và bà Nguyễn thị Tuyết lần đầu tiên gặp gở nhau, mừng mừng tủi tủi với
những giọt nước mắt lăn dài trên má.
Hàng ngàn người dân đứng dọc theo hai bên đường từ Châu Đốc đến Núi Sam
để đưa linh vị Thoại Ngọc Hầu từ đình Châu Phú về đến lăng miếu. Lễ hội được
phục chế với những đoàn lân sư rồng mở đường, binh sĩ mặc áo lính thời xưa cầm
cờ lọng và vũ khí tiếp nối cùng với những đoàn xe ngựa chở các vị bô lão đi
trước xe chở linh vị. Đặc biệt là đoàn binh sĩ đi “cà kheo” là một công cụ quen
thuộc của vùng đất Nam bộ để đi trên đất sình lầy. Hình ảnh này khiến các du
khách nước ngoài ngạc nhiên và thích thú, máy ảnh trên tay cứ chớp sáng liên
hồi.
Lễ đọc bia kí Vĩnh Tế hà và Tế nghĩa trũng văn cũng đã được phục hiện
với đoàn hát tuồng từ Đà Nẵng vào. Giữa âm thanh lắng đọng tại sơn lăng, lời văn
hùng hồn của bia kí Vĩnh Tế hà cũng như cảm động của bài Tế Nghĩa trũng văn làm
mọi người bồi hồi khi nghĩ đến công lao của bậc tiền nhân khi đến khai phá vùng
đất này. Tiếng gió thổi tựa như những linh hồn của nghĩa sĩ từ những ngôi mộ ở
hai bên lăng về đây hồi tưởng lại những gian khổ mà mình đã trãi qua.
“ Sinh vi tướng, tử vi thần” , đó là tấm lòng của người
dân An Giang đối với người đã dành trọn cuộc đời mình để biến một vùng đất hoang
vu thành nơi đô hội như hiện nay. Bất chấp lệnh cấm của triều đình Huế , sau khi
ông bị án oan người dân vẫn lén lút đem bài vị của ông về thờ tại miếu bà Chúa
Xứ núi Sam và hằng năm vẫn tế lễ theo nghi thức một Thành Hoàng cho đến ngày ông
được giải án oan.Hiện nay linh vị của ông vẫn còn được lưu giữ tại đình Châu Phú
và hàng năm vào ngày giỗ mới được rước về sơn lăng dưới chân núi Sam đối diện
với miếu Bà Chúa Xứ.
Việc tổ chức lễ hội đường phố này cũng nhằm mục đích giáo dục cho thế hệ
trẻ sau này những hiểu biết về lịch sử của địa phương vốn không được chú trọng
trong môn lịch sử tại các lớp phổ thông. Mong rằng nó sẽ được nâng cấp thành lễ
hội văn hóa cấp vùng để có thể được phổ biến rộng rãi phù hợp với đạo lý
“uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
LÂM THANH
QUANG
Hình ảnh lễ
kỹ niệm giỗ thứ 180 của ngài Thoại Ngọc Hầu:
Quân lính đi cà kheo trong lễ hội rước linh vị của
Ngài Thoại Ngọc Hầu
từ đình Châu Phú đến lăng miếu tại Núi
Sam.
\ Xe ngựa chở các bô lão trong lễ hội đường
phố.
4. Ảnh 4 : Xe chở linh vị Thoại Ngọc Hầu.
Nhà hát tuồng Đà Nẵng trình diễn trong ngày
lễ kỹ niệm
giỗ thứ 180 của ngài Thoại Ngọc
Hầu
Đọc văn bia Vĩnh Tế và Thoại Hà .
Đọc Tế Nghĩa Trũng văn.
Tượng ngài Thoại Ngọc Hầu tại
miếu thờ sau lăng.
Lăng Thoại Ngọc Hầu.
Chú thích :
1. Trấn Vĩnh Thanh bao gồm các tỉnh như Đồng Tháp, Vĩnh Long và các tỉnh
nằm bên bờ Hậu Giang như Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang...
2. Theo tư liệu khảo cứu của Bác sĩ Châu Hữu Hầu thì vào khoảng năm
1817-1823 trên thế giới xãy ra trận dịch tả làm chết nhiều người. Riêng tại
Việt Nam số người chết khoảng vài trăm ngàn người chiếm khoảng 5% dân số lúc đó.
Do điều kiện sơn lam chướng khí, dinh dưỡng kém, vệ sinh không đảm bảo... nên
số người chết vì bệnh dịch tả chiếm tỉ lệ rất cao trong số những người hy sinh
khi đào kinh.
3. Sải Kế vốn là một nhà sư người Cao Miên tự xưng mình là Phật Vương
qui tụ một số người Việt gốc Cao Miên nổi lên làm loạn, cướp phá khắp nơi làm
dân thình thán oán phải bỏ xứ mà đi. Triều đình cử nhiều người đi dẹp nhưng
không thành. Cuối cùng Nguyễn văn Thoại với mưu trí và lòng dũng cảm của mình đã
bắt được Sải Kế xử chém, toán cướp phải xin hàng.
4. Vùng An Giang hàng năm phải chịu 6 tháng lũ từ đầu tháng 5 âl đến hết
tháng 10 âl. Do điều kiện đi lại khó khăn, không trồng lúa được nên người dân
vào tháng này rất đói khổ, việc đào kinh cũng phải dừng lại vì nước
lũ.
5. Cao đỉnh là một trong Cữu đỉnh được vua Minh Mạng cho đúc vào
cuối năm 1835, hoàn thành vào năm 1837 trên
đó có khắc những công trình quan trọng, cùng với cây cỏ hoa lá biểu tượng cho
sự giàu đẹp ở mọi miền đất nước. Cữu đỉnh gồm :
- Cao Đỉnh: tương ứng với Thế Tổ Cao Hoàng
Đế, vua đầu tiên của triều Nguyễn có niên hiệu là Gia Long.
- Nhân Đỉnh: tương ứng với Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, niên hiệu Minh Mạng.
- Chương Đỉnh :
tương ứng với Hiến tổ Chương Hoàng Đế, niên hiệu Thiệu Trị.
- Anh Đỉnh : tương
ứng với Dực Tông Anh Hoàng Đế, niên hiệu Tự Đức.
- Nghị Đỉnh : tưng
ứng với Giản Tông Nghị Hoàng Đế, niên hiệu Kiến Phúc.
- Thuần Đỉnh : Tương
ứng với Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế, niên hiệu Đồng Khánh.
- Tuyên Đỉnh : tương
ứng với Hoàng Tông Tuyên Hoàng Đế, niên hiệu Khải Định.
- Dụ
Đỉnh.
- Huyền
Đỉnh.
Vua Dục Đức và Hiệp Hòa vì chống đối với hai đại thần là Nguyễn văn
Tường và Tôn Thất Thuyết nên bị phế truất và bị giết, còn các vua Hàm Nghi, Duy
Tân và Thành Thái cũng vì chống đối người Pháp mà bị phế truất và lưu đày nên
không được chọn tên trên cữu đĩnh. Riêng vị vua cuối cùng của triều Nguyễn là
Bảo Đại cũng vậy, do từ bỏ ngôi vua năm 1945 nên cũng không được cho là biểu
tượng trên cữu đỉnh.
6. Thành Bảo hộ tức là thành Châu Đốc ngày xưa nằm ở vị trí Doanh trại
bộ đội Biên Phòng An Giang hiện nay. Nó còn có tên gọi là thành CB vào thời Pháp
và Mỹ . Ngày xưa thành nằm ở vị trí ngã ba sông do cồn Tiên chưa được bồi như
hiện nay. Vào khoảng đầu năm 1970 khi sửa chữa thành người ta bắt gặp nền móng
của thành cổ nằm ở bên dưới.
7. Mỗi phẩm hàm có hai bậc chánh và tòng. Giáng xuống 5 cấp tức là từ
Chánh nhất phẩm xuống Tòng tam phẩm chứ không phải là chánh ngũ phẩm như một số
nhà khảo cứu nghĩ lầm.
8. Lê văn Duyệt vốn là Thái giám theo phò Nguyễn Ánh lúc 17 tuổi. Ông đã
cùng các tướng lảnh khác giúp Nguyễn Ánh chiếm Gia Định, Phú Xuân và thu phục
Bắc Thành. Ông được phong chức Quận Công và trấn thủ Gia Định Thành hai lần :
lần đầu từ 1813-1816, và lần sau từ 1820-1832. Ông có quyền hành rất rộng cai
quản cả vùng Bình Thuận và trấn Hà Tiên. Do ông chọn con của Hoàng tử Cảnh lên
ngôi thay vì Hoàng Tử Đảm ( vua Minh Mạng sau này) nên giữa ông và vua Minh Mạng
xãy ra mối bất hòa. Trong lúc đương thời, ông cho phép các thuyền buôn nước
ngoài được tự do buôn bán và các giáo sĩ Thiên Chúa được tự do truyền đạo nên
khiến vua Minh Mạng càng căm ghét. Sau khi mất, ông bị triều đình kết tội chuyên
quyền và bị xiềng mộ lại khiến người Gia Định thán oán mới xãy ra loạn Lê văn
Khôi sau này. Ngôi mộ của ông hiện nay ở quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh thường
được gọi là Lăng Ông Bà Chiểu, thường ngày được nhân dân trong vùng đến thắp
hương cúng bái.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét