Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2013

CON CÁ LÀM RA CON MẮM


Lương Thư Trung

CON CÁ  LÀM RA CON MẮM

Đời sống cư dân ở thôn quê, nơi làng xóm miền Nam, gắn liền với những món ăn như dưa, cà, mắm, muối. Những món ăn vô cùng thanh đạm ấy giống như những kiếp người nơi làng quê cũng thanh đạm, bần hàn mãi hoài... Điều đó cho chúng ta thấy rằng mắm là thức ăn có từ đời kiếp nào rồi, lâu lắm mà không làm sao biết được ai là người làm ra đầu tiên.

            Vào tháng hai, tháng ba những cánh đồng lúa mùa đã cắt gặt xong. Những đàn bò thả lan đi rong, đi rỗi khắp cùng trên cánh đồng chỉ còn trơ những gốc rạ để cạp đỡ mấy bụi cỏ non, mấy bụi lúa rày vừa đăm tượt. Mương rạch, đìa bào cá đồng dồn về như ngày hội . Đầu này tiếng cá lóc táp lốp bốp, đầu kia cá rô, cá sặc thay phiên nhau lên móng như cơm sôi. Còn những bún đập, những khúc lóng, khúc mương đầy cỏ, đầy lục bình mà cá làm nơi cư ngụ lưu lai nữa chứ. Đó là cá trên đồng. Còn dưới sông, những đống chà chất bằng nhánh me nước, nhánh sao, nhánh bần là chỗ dựa cho những chàng cá có máu giang hồ ghé lại nghỉ chân trên con đường du lữ. Cả một vùng sông nước, đìa bào, mương rạch vùng đồng bằng miệt sông Cửu Long cá ơi là cá. Những cộ xe trâu, xe bò kẽo kẹt trên những con đường mòn từ dưới kinh, dưới đìa kéo cá về nhà. Cá sống, cá chết đổ đầy ra sân. Cá không còn tính từng bao nhiêu con, bao nhiêu ký nữa, mà tính bằng thùng, bằng giạ. Đó là những ai có đìa bào, mương rạch. Còn những người không có đìa, không có mương lóng, họ thường đi bắt hôi. Bắt hôi cá là bắt cá sót. Những chủ đìa, chủ mương tát cạn đìa,  cạn mương, rồi bắt cá trước, người bắt hôi theo sau bắt những con cá còn sót lại chúi xuống bùn, dưới cỏ. Những thời xa xưa ấy cá nhiều vô số kể, nên người bắt hôi cũng được cá nhiều lắm, có khi cả giỏ mang về không nổi. Thường thường trẻ nhỏ đi bắt hôi cá đông hơn người lớn, vì bắt hôi cũng là hình thức mót lại của rơi rớt như mót lúa đổ, lúa rớt chẳng hạn. Người lớn vì lòng tự trọng, không muốn bị chủ đìa, chủ mương nhiều lúc dùng lời lẽ nặng nhẹ khi có những đứa trẻ bắt hôi tràn lên phía trước, nên ít khi họ đi bắt hôi.

            Cá nhiều quá ăn không hết, nên người nhà quê làm khô, làm mắm để dành khi thắt ngặt, lúc mùa màng đông ken không có thì giờ bắt cá, bắt lươn, sẵn có khô có mắm mà làm thức ăn chánh trong nhà. Nhưng so với cá khô thì mắm là thức ăn được nông dân làm nhiều hơn vì mắm để lâu được và cũng chế biến nhiều cách ăn riêng và tiện lợi vô cùng.

            Về thời khắc làm mắm, thường thường cũng phải có mùa tùy theo mùa cá. Có thể kể ba mùa làm mắm chính trong một năm là mùa cá đìa tháng hai, tháng ba âm lịch; mùa cá giở chà từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch; và mùa cá ra vào tháng mười, tháng mười một âm lịch vào những ngày nước trên đồng rút về sông về biển sau mùa lụt hằng năm.

            Vào những ngày mùa làm mắm, thôn quê cũng nhộn nhịp như mùa chuột, mùa cắt lúa, mùa cá linh, mùa bắt cúm núm, mùa chằm nón lá, mùa cắt cỏ bò, mùa quết cớm dẹp với những hạt nếp vừa chín tới khi ngọn gió bấc se lạnh tràn về... Không khí rầm rộ, tiếng nói, tiếng cười trên khắp chốn thôn quê đồng nội pha lẫn vào nhau như những ngày quết bánh phồng, hoặc giã gạo chày ba vào những đêm trăng sáng vằng vặc. Ở đây, nó còn mang phong cách đầm ấm gia đình, tình nghĩa chòm xóm láng giềng thân thương, bình dị, chân tình pha những tiếng cười hồn nhiên trong lành, mà phải có đi vào thôn xóm vào những mùa màng như mùa làm mắm mới thấy hết được.

            Trước nhất, thông thường muốn làm mắm, cá phải làm sạch sẽ, rửa nước nhiều lần, rồi để trong rỗ cho cá thật khô ráo mới muối. Số lượng muối tùy theo cá nhiều hoặc ít mà thêm bớt cho vừa vặn, không mặn quá, mà cũng không ít quá. Vì muối ít, cá sẽ không đủ muối sẽ bị ươn, sau này mắm sẽ hư, dễ bị" trở". Có khi cá rửa không được sạch bùn, dù cho có muối nhiều, cá vẫn ít ăn muối và về sau cá mắm dễ bị tình trạng mắm “trở”. Nên trong dân gian, tục ngữ ca dao có câu :

             “Cá không ăn muối cá ươn,
           Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.”

            Vì cá nhiều quá, dân quê không thể ngồi đánh vẩy cá làm từng con, mất nhiều thì giờ cùng công sức. Nên để tiết giảm công sức và cũng muốn làm cho nhanh, thông thường, người nhà quê cho cá vào trong một cái khạp da bò, rồi dùng miếng đăng củ, bó tròn lại vừa với tay cầm để trộn những  con cá trong khạp cho tróc vẩy, giống như người Miên, người Thượng dùng chày để "giọt " những mẻ lúa làm gạo. Sau khi thấy cá tróc vẩy gần hết, đổ cá ra và rồi tiếp tục"giọt" vảy những mẻ cá khác. Còn những người còn lại tiếp tục chặt kỳ vi làm sạch cá như làm cá để kho hoặc nấu canh ăn vậy.

            Muối cá làm mắm thường bà con dùng muối Bạc Liêu, không bao giờ dùng muối bọt. Muối Bạc Liêu dù hơi đen vì ruộng muối ở đó có bùn nhưng độ mặn rất đậm đà, muối mắm ít khi bị tình trạng"mắm trở". Sở dĩ không dùng muối bọt vì độ mặn không đủ làm cá thành mắm, nên mắm dễ bị hư. Cá muối được đựng trong những cái khạp mái đầm, còn gọi là mái vú vì những khạp này ngày xưa ở nhà quê thường dùng vào việc vú trái cây như xoài, chuối. Có một điểm đáng lưu ý là mái nào dùng để đựng mắm rồi là không còn dùng vào việc vú trái cây được nữa, vì mùi mắm còn dính trong lu mặc dù đã rửa sạch nhiều lần sẽ làm trái cây bị mất mùi thơm và trái cây bị úng hư. Ngoài ra, người ta cũng có thể đựng cá trong các hủ đựng đường chảy bằng sành, hoặc khạp da bò v.v...Miễn sao, cá muối này được gài bằng những tấm vỉ tre và dằn lên những cục đá xanh cho con cá muối được ép thật sát lại mà người bình dân quen gọi như một thành ngữ khi đi xe đò chật ních, “ép như gài mắm” là vậy...

            Ngày trước, hồi mẹ tôi còn sống, tôi để ý thấy mỗi lần cá mắm muối được từ hai đến ba tháng, mẹ tôi thường rang gạo lức cho thật chín vàng, rồi dùng cối đá xay cho nhuyễn ra với mùi thơm như cớm, gọi là thính. Mẹ tôi giở cá muối ra để trong những cái thau rồi rắc thính trộn đều vào từng con cá muối, kể cả bên trong bụng cá. Làm như vậy cá mới đều thính và mắm mới ngon được. Công dụng của thính vừa làm cho thịt cá muối dần dần biến thành mắm, mà nó cũng làm cho mắm thơm nữa. Có thể nói, nếu không có thính bằng gạo lức rang, cá muối không bao giờ thành mắm được dù có để đến bao nhiêu lâu cũng vậy. Do đó giai đoạn thính mắm là giai đoạn quan trọng vô cùng. Chính nhờ vào thính này mà người ta mới ăn mắm sống mà không ngại ngùng gì vì mắm không còn là cá muối đơn thuần nữa.

            Sau khi thín độ hơn tháng hoặc vài tháng, mẹ tôi bắt đầu giai đoạn cuối trong công việc làm mắm là chao mắm. Vật liệu chao mắm gồm đường chảy được thắng lên vừa có chỉ như thắng đường làm kẹo kéo; có khi còn trộn với cháo nếp. Tất cả được trộn đều vào từng con mắm cốt cho mắm dịu lại, không còn mặn như cá muối nữa. Chao mắm xong lại nhận mắm vào khạp, vào lu như lúc ban đầu và gài vỉ tre cho chắc chắn để không bị nước mắm"nong nước" vào. Nếu mắm mà bị nong nước, mắm coi như bị hư, mất ngon. Mắm được coi là ngon, tức là mắm có vị vừa ăn, không mặn quá mà cũng không chua, mùi rất thơm. Làm mắm mà bị mắm chua, mắm mặn, mắm trở là thất bại rồi; nếu có chế biến, sửa chữa cũng không thể ngon được. Như việc đời, cái gì cũng phải học dù học làm mắm, không phải dễ dàng chút nào. Chao mắm sau vài tháng là mắm bắt đầu đem ra ăn được, kể cả ăn sống. Nhưng theo kinh nghiệm nhà quê, mắm để càng lâu càng thắm đường, con mắm dịu lại càng ngon hơn là ăn mắm quá gấp.

            Ở đồng bằng sông Cửu Long dường như nơi nào cũng biết làm mắm. Nhưng những vùng nào đồng ruộng, lung vũng nhiều là mắm nhiều vì lý do đơn giản là cá nhiều. Một vài nơi tiêu biểu vào mùa làm mắm là miệt Châu Đốc, Tân Châu, Hồng Ngự, Long Xuyên, Xà Tón, Cầu Số Năm (Tri Tôn), Ba Thê, Cà Mau, Rạch Giá, Ba Răng, Đốc Vàng v.v... Và có lẽ mắm Châu Đốc là mắm nổi tiếng nhất vùng.
Dường như cá nào cũng làm mắm được, ngoại trừ những loại cá nhiều mỡ. Vì cá nhiều mỡ làm mắm hoặc làm khô dễ bị hôi dầu. Thường thì cá thuộc tên nào, mắm cũng cùng tên như vậy. Có mấy loại mắm thông dụng như mắm cá lóc, mắm cá sặc, mắm cá rô đồng, mắm cá trèn, mắm cá linh, mắm cá thác lác, mắm cá rô biển( loại cá này cũng ở trong sông nước ngọt, gọi như vậy để phân biệt với cá rô trên đồng), mắm cá nâu(ở vùng nước pha chè), mắm cá chốt, mắm cá trê trắng, mắm cá trê vàng...Ngoài ra, thỉnh thoảng người ta còn làm mắm tôm, mắm tép, mắm chuột... Hồi tôi còn nhỏ, vào những năm còn ít người cư ngụ vì họ chưa hồi cư, ở xóm tôi  những năm còn làm lúa mùa, lúa nổi, cá lóc nhiều và rất lớn, có con cỡ một hoặc hai ký, người ta còn lấy ruột cá lóc làm mắm. Loại mắm này có tên là mắm lòng hay mắm ruột.

http://www.gtot.vn/components/com_virtuemart/shop_image/product/M___m_c___tr__n__4f0ad49a68756.jpg   http://www.gtot.vn/components/com_virtuemart/shop_image/product/M___m_th__i___u__4f33ab94104a8.jpg
Mắm Trèn lá     (Nguồn:www.gtot.vn)     Mắm thái đu đủ

            Riêng mắm lóc, người ta hay chế biến một loại mắm để ăn sống bằng cách thái lấy thịt mắm lóc rồi ướp thêm đường, tỏi, đu đủ mỏ vịt bào nhỏ mà trộn thêm vào, gọi là mắm thái. Châu Đốc nổi tiếng về loại mắm thái này, không đâu sánh bằng. Mắm thái Châu Đốc được đựng trong các keo bằng thủy tinh, hoặc những cái hủ nhỏ bằng sành, bán tại Châu Đốc cũng như khắp các vùng lân cận, mà nhất là tại các bến bắc Vàm Cống (Long xuyên), Mỹ Thuận (Vĩnh Long), Cái Vồn (Cần Thơ) vân vân... Du khách hay khách bộ hành đi ngang qua những nơi này, ai cũng mua vài keo mắm thái Châu Đốc về biếu tặng bạn bè thân thích, nhất là có dịp về Sài Gòn, nếu mang tặng người quen vài keo mắm thái, mắm cá trèn Châu Đốc thật là quí vô cùng. Bây giờ, có dịp các bạn đến những chợ Việt Nam ở Mỹ, các bạn sẽ thấy người ta bày bán những keo mắm thái của Thái Lan nhưng lại mang nhãn hiệu mắm thái Châu Đốc, điều này cho thấy mắm thái Châu Đốc nổi tiếng khắp mọi miền.

            Trong sách biên khảo Văn Minh Miệt Vườn của Sơn Nam khi đề cập đến các món ăn ở miệt vườn có nói về món mắm, nhưng chỉ vỏn vẹn vài dòng như sau:" Nhưng thành công nhứt và phổ biến nhất là món ăn bình dân, tập trung bao nhiêu tinh túy của sản phẩm địa phương. Thí dụ như cá rô kho tộ..., canh chua cá lóc..., cá trê vàng nướng dầm nước mắm gừng, hoặc mắm lòng, mắm thái ăn với thịt luộc, rau sống."

            Thực tế, cách chế biến mắm làm thức ăn có nhiều hình thức rất phong phú, hạp với khẩu vị từng người. Trước nhất, món mắm thông dụng mà ai ai cũng biết là mắm kho ăn với rau ghém. Ở đây chỉ muốn ghi thêm một chi tiết nhỏ, mỗi khi kho mắm, ngoài cá, thịt kho chung với mắm, người nội trợ thường để thêm cà phổi vào như chất độn làm cho nồi mắm nhiều thêm nhằm đủ ăn cho một bữa cơm, vì gia đình ở nhà quê nhiều khi con cái quá đông, chỉ mắm kho với cá, với thịt ít quá, mấy đứa nhỏ gắp qua một lượt rồi ngồi ngơ ngáo, không còn gì. Thực ra, cà phổi không làm cho mắm ngon thêm, đôi lúc còn làm giảm vị ngon thơm của mắm.

            Còn món mắm chưng nữa, cũng rất thông dụng. Nếu các loại cá mắm ít xương nhiều thịt như mắm lóc, mắm trê, mắm trèn hoặc đôi khi mắm cá rô đồng lớn con, người nhà quê thường để nguyên con trong cái tô lớn, thêm chút gia vị như đường, mỡ, bột ngọt, tiêu, hành rồi để trong cái nồi lớn đem chưng cách thủy. Nhớ chụm lửa liu riu, nước trong nồi sôi lên, bốc hơi và hơi nước này làm chín cá mắm trong tô. Nếu các loại cá mắm nhiều xương như mắm cá linh, mắm cá thác lác, mắm cá chốt, bà con hay bằm nhuyễn ra cho xương mắm nát nhừ, rồi lấy vài hột gà ổ, hoặc hột vịt ta trong cái bội mà đập ra trộn đều vào tô mắm, cùng một ít gia vị sẵn có trong bếp như đường, tiêu, bột ngọt, hành, mỡ, rồi đem chưng cách thủy như trên. Ghi nhận thêm, hột gà, hột vịt có tác dụng làm cho mắm bằm nhuyễn dễ kết dính, đặc lại và cũng để làm cho món mắm chưng thêm đậm đà.

http://files.myopera.com/BepNhaCa/blog/Mam%20Chung.JPG      http://thucphamthuoc.net/uploads/2.jpg
Mắm Chưng với hột gà                                              Mắm Chưng cá lóc
 (nguồn: my.opera.com)                                         (nguồn:  thucphamthuoc.net)

            Mắm chiên cũng là món rất được bà con nhà quê ưa thích, vì mắm chiên hương vị thơm ngon, hấp dẫn. Nhưng vì là chiên, nên không có nước, do vậy không chấm với rau được. Vả lại, nhà nào nghèo, trẻ con đông ít khi ăn mắm chiên vì không đủ thức ăn cho mấy đứa trẻ ăn xong một bữa cơm.

            Mắm ruột, mắm thái, mắm sống nguyên con, nhất là mắm cá linh, cá trèn, cá chốt, cá thác lác, cá rô đồng..., thường được người nhà quê ăn sống với khoai lang nấu chín, với bắp hầm, với cơm nguội, cùng với rau thơm các loại như húng cây, rau răm, rau cần gai, đọt quế, lá tía tô, lá gừng non, chuối chát, khế, xoài sống... Nếu có thêm vài miếng thịt ba rọi luộc cặp vào, rồi nhâm nhi vài ly rượu nếp thanh ngon, cay cay đã là lạc thú ở đời rồi. Đặc biệt, qua nhận xét của nhiều người nông dân thích ăn mắm sống đã đưa ra kết luận: nếu ăn mắm sống mà ăn bốc bằng tay thì cái độ ngon có thể làm tăng thêm mấy mươi phần trăm so với ăn mắm sống bằng đũa. Giải thích về điều này có thể hiểu đây như một trạng thái tâm lý, vì không bị gò bó nơi bàn tiệc khách khứa với đũa mun chén kiểu.
            Sau này vì nhu cầu ở chợ búa nhằm chiều khách, nhiều nhà hàng, tiệm ăn bày thêm món lẫu mắm. Đây cũng là hình thức mắm kho nhưng mắm được đặt trong cái cù lao để giữa bàn với than hồng đỏ rực làm cho món mắm luôn luôn sôi nóng, mắm không bị nguội. Ngoài ra có thêm món nhúng mắm. Cũng mắm kho như lẫu mắm nhưng cá tôm sống được ướp gia vị và để một dĩa riêng, khi nào ai cần ăn bao nhiêu thì gắp cá tôm mà nhúng vào mắm như ăn món cá nhúng giấm thường lệ .

Lẫu mắm
 
(nguồn: vnthuquan.net)                      (nguồn:mientayonline.net)

            Điều đặc biệt đáng lưu ý là trong các lễ kỵ giỗ, dù là nhà quê nhưng không ai kho mắm cúng ông bà bao giờ. Lý do có lẽ những ngày giỗ kỵ là những ngày lễ quan trọng trong gia đình, lại nữa món mắm là món ăn cực ở nhà quê, mà ông bà cha mẹ lúc sanh tiền đã phải ăn mắm suốt đời rồi, nên con cháu không muốn tổ tiên phải ăn uống kham khổ thêm nữa.

            Lại nữa, thực tế ở nhà quê, ngày nào cũng ăn cơm với mắm, nên vừa ăn no đấy rồi lại nghe bụng kêu đói nữa. Ăn mắm nhiều sẽ có những hiện tượng như khô cổ, xót ruột, mắt bị mờ, miệng bị lỡ... Thỉnh thoảng có mướn thợ mộc cất nhà, tuyệt đối không ai dọn món mắm kho cho thợ mộc, dù mắm loại ngon, vì thợ mộc quan niệm chủ nhà cho ăn mắm kho là hà tiện, có thể thợ mộc không ăn, hoặc ăn nhưng để tâm "ếm" chủ nhà vì tính keo kiệt. Thông thường thợ mộc nào cũng có chút ít bùa, nên làm như mắc phải lời thề, cất nhà là phải ếm, chỉ khác nhau ở chỗ nặng, nhẹ mà thôi. Nên người chủ nhà nào khi mướn thợ cũng ngại chỗ phải lo thức ăn gần cả tháng trời, nhất là ở nhà quê việc bắt cá, bắt lươn đâu phải dễ dàng. Tuy vậy, vì ở thôn quê còn nhiều người mê tín dị đoan, nên lo xa vậy thôi. Chứ thực tình, tôi chỉ nghe người lớn kể lại những vụ ếm bùa hồi xưa, chứ sau này đến thế hệ tôi, tôi ít nghe ai nói nhà mình bị thợ mộc ếm.

Rau để ăn với mắm kho (Lẫu mắm)
   
(nguồn:tintuc.timnhanh.com.vn)                                       (nguồn:lamsao.com)

            Về các loại rau để ăn với mắm kho, mắm chưng, lẫu mắm, nhúng mắm, toàn là những loại rau có sẵn xung quanh vườn hoặc ngoài bờ mía, bờ ruộng. Chỉ cần cầm cái rỗ đi một vòng ngoài vườn là có đủ thứ rau. Nào là rau thơm đủ loại, rau càng cua, rau đắng, cải trời, cải bẹ xanh, cải ngọt, rau má, lá lốt, lá chùm ruột, lá gừng, cọng bông súng, bắp chuối lá xiêm, bắp chuối hột, bắp chuối ngự, bắp chuối lá ta (vì các loại bắp chuối khác bị đắng, không ăn được), cây chuối con xắt mỏng làm rau ghém dùng để ăn với mắm kho. Còn những loại rau để luộc chắm với mắm có đọt bầu, đọt bí rợ, đọt bí đao, đọt mướp, bông bí rợ, bông so đũa, rau diệu, rau mát, rau muống, rau ngổ, rau dền, lá vông nem, bông lục bình, bông điên điển...Tùy lúc, tùy mùa mà có sẵn từng loại rau để bữa cơm nhà quê thanh đạm với món mắm chưng, mắm kho, mắm sống, mắm chiên làm cho đời sống nhà quê nhẹ nhàng trôi qua mỗi ngày như mọi ngày ...

            Trong dân gian người ta cũng truyền miệng nhau về những câu tục ngữ, ca dao liên quan đến mắm. Mắm là nét đặc trưng cái chất phác của nhà quê, cái chân thật của miệt vườn, cái tình cảm thật thà, đơn giản, bình dị của người dân nơi đồng ruộng. Bạn có dịp ghé qua làng quê tôi, bạn sẽ được bà con ở đấy mời bạn dùng bữa với lời lẽ chân thật, không khách sáo chút nào:" Mời em dùng cơm với qua, có mắm ăn mắm, có muối ăn muối, em đừng ngại!" Giản dị với chừng ấy, giống như tấm lòng của họ móc ruột để ra ngoài, bạn không phải e ngại gì. Và rồi mời bạn phủi chân, ngồi vào bộ ván ngựa ăn một bữa cơm no bụng với món mắm kho hoặc mắm chưng là họ mừng vô cùng...

            Để nhắc nhở con cháu hãy liệu sức mình, đừng quá ôm đồm, tham lam mà thất vọng vì việc quá sức, không thành, nên người đời truyền khuyên nhau câu tục ngữ :

            “Liệu cơm, gắp mắm.”
hoặc văn chương hơn, có vần có điệu hơn như mấy câu ca dao:
“Liệu cơm mà gắp mắm ra,
            Liệu cửa liệu nhà, em lấy chồng đi .
            Nữa mai quá lứa lỡ thì,
            Cao thì chẳng tới, thấp thì chẳng thông.”

            Thường thường, người dân quê vốn tin vào những điều hư ảo, điềm mộng, dị đoan, nên nếu con cháu có đứa nào nói điều gì có tính cách không hên, ông bà thường hay rầy dạy :
" Miệng ăn mắm, ăn muối đừng nói dại."

Và cũng để khinh ai, người ta cũng mượn mùi mắm mà dùng vào chốn văn chương, nghĩ mà thương cho mùi mắm quá đỗi. Mời các bạn đọc đoạn hồi ký sau đây của nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Pha :
“... Những tờ đọc chán nhất lúc bấy giờ(*) là Lục Tỉnh Tân Văn của Nguyễn Văn Của(tức Huyện Của) ra hằng ngày ở Sài Gòn, tờ Nước Nam ra hằng tuần ở Hà Nội của Lương Ngọc Hiển; tờ Nước Nam, anh em thường gọi là tờ "Nước Mắm"; bài vở của hai tờ này viết đã không ra gì, lại in lèm nhèm, nhưng tôi vẫn xếp riêng khi chưa đọc.”

             Nhưng có lẽ chu trình biến hóa từ con cá thành con mắm là một chu trình biến thái của đời sống thực. Nó thực đến nổi trở thành một triết lý trong đạo vợ chồng. Sau bao năm mặn nồng, hạnh phúc để rồi chợt nhận ra đôi uyên ương mới ngày nào còn non trẻ, phơi phới xuân hồng, giờ đã răng long tóc bạc, gối mỏi chân dùn... Nhìn lại dòng đời mà nghe như hai tâm hồn chan hòa vào nhau, tan loãng vào nhau nghĩ đến ngày... mà đôi vợ chồng già nhà quê sau bao ngày vất vả cơ cực, ngồi bên ánh đèn dầu leo lét trong đêm trường thì thầm tâm sự về một kiếp nhân sinh :

            “Con cá làm ra con mắm,
            Vợ chồng già, thương lắm mình ơi !”
image001.jpg
Vợ chồng cụ Nhạc - Phương  Ảnh: Nguyễn Thái Bình)

Một ý tưởng tưởng chừng mộc mạc, đơn sơ mà thâm thúy và cảm động biết dường nào!!!



Tháng 2 năm 1998

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét