Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

CHUYỆN XƯA KINH VĨNH TẾ....


Chuyện xưa bên bờ kinh Vĩnh Tế.

Ghi chép: Nguyễn Ngọc Phan
1. Thị xã Châu Đốc trong những ngày giáp Tết không thấy cái se lạnh vốn có của đất phương Nam. Cơn bão cuối cùng của năm con Rồng, cũng là cơn bão đầu tiên của năm 2013 quét qua vùng cực nam biển Đông gây những cơn mưa trái mùa khiến cho không khí trở nên oi nồng.
Bên kia cầu Vĩnh Nguơn, bảng chỉ dẫn đường cho biết còn 3 cây số là đến cửa khẩu biên giới Việt Nam-Campuchia. Theo đường nhỏ trải đá dăm có tên là Tây Xuyên, đi tới ngả ba sông Châu Đốc độ hơn cây số, nơi đây gọi là ấp Vĩnh Tân. Hai bên nhà cửa san sát, nhiều ngôi nhà sàn cất nhô ra bờ kinh, khiến cho lòng kinh hẹp lại, trông có vẻ nhếch nhác. Từ đây có một con đường tương tự cặp theo sông rồi lên sát biên giới. Nghe nói khu vực này buôn lậu nhiều, một người địa phương lại cảnh báo, mấy anh chụp hình cẩn thận, ở đây mới vừa phá một vụ buôn lậu lớn. Họ còn chỉ mấy chiếc xe gắn máy chở đàng sau những thùng mì gói và nói nhỏ “không phải chở mì đâu, toàn thuốc lá trong đó, đám buôn thuốc lá lậu ở đây hung dữ lắm”.

DSC_1925.JPG
Vàm kinh Vĩnh Tế ở ngả ba sông Châu Đốc (Ảnh: NNP)
Nghe qua cũng khá hồi hộp, nhưng buổi bình minh ở ngả ba nối sông Châu Đốc và Vĩnh Tế đẹp quá, không ngăn được cảm xúc nên đánh liều lôi máy ra bấm đại vài kiểu. Phía bên kia sông là một dãy nhà bè nuôi cá, thấp thoáng ẩn hiện trong sương mù.

DSC_1922.JPG
và đình Vĩnh Ngươn (Ảnh: NNP)
Đình Vĩnh Ngươn khá đẹp day mặt ra ngả ba sông. Ông từ giữ đình cho biết nó được trùng tu năm 1929. Trong đình từ lâu đã có lập bài vị thờ Thoại Ngọc Hầu, hàng năm ngày cúng Kỳ Yên 15, 16 tháng chạp đều tổ chức tế vị quan mà công nghiệp đào kinh mở lộ vùng Châu Đốc còn ghi trong sử sách. Năm 1819, khi chủ trương đào kinh Vĩnh Tế, vua Gia Long đã ra lệnh đo thẳng từ hào sau phía phải đồn Châu Đốc lên phía tây qua láng bùn Ca Âm đến Cây Kè về Hà Tiên; Chắc hẳn đây nơi Thoại Ngọc hầu làm lễ  khởi công đào kinh Vĩnh Tế.
Từ đây kinh Vĩnh Tế chạy song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia. Điểm nối giáp hiện tại là ngả ba Giang Thành, thuộc thị xã Hà Tiên. Đoạn đường cặp theo kinh từ Tịnh Biên đến Hà Tiên dài hơn 60 km,  mấy năm trước đoạn này còn là đường đất khá ghồ ghề, nay đã mở rộng, trải nhựa, có cả tuyến xe buýt nối liền Hà Tiên Châu Đốc. Bờ tây kinh là cánh đồng lúa, xa xa nhiều quả núi nhấp nhô, không cao như những dãy núi ở miền Trung Việt Nam nhưng ở giữa cánh đồng trải rộng, nó trở thành điểm nhấn đáng kể. Kinh Vĩnh tế đoạn này có nhiều chỗ khá hẹp và cạn do bùn lấp, nhưng cũng có nhiều chỗ nối vào các con kinh sườn, nước đạp mạnh, đang sạt lở.
Bên phải Tỉnh lộ 955A nhà cửa có đoạn còn thưa thớt, có vài ngôi nhà sàn bằng gỗ khá đẹp, dường như chủ nhân cố gắng gìn giữ để bảo tồn  bản sắc giữa sự bao vây của lối kiến trúc thực dụng bê tông cốt thép ở những thị tứ ven đường.
2. Dường như sau khi con kinh hoàn thành rồi mới có dân đến khai hoang lập thôn ấp. Đến năm Minh Mạng thứ 15 (1834) Tổng đốc Trương Minh Giảng tấu trình, nói: “Sông Vĩnh Tế là đường thuỷ đi Hà Tiên tất phải đi qua, chỗ ở thôn Vĩnh Tế gần núi Sam, cách thành Châu Đốc độ 5 dặm, là nơi rất xung yếu, xin cho đặt hai đồn ở hai bên bờ. Bờ bên đông sông Hậu  xế thành Châu Đốc có đồn Châu Giang cũng là một nơi xung yếu xin liệu sửa sang thêm, sai quan quân thủ sở canh giữ. Bên hữu thành Châu Đốc, từ núi Sam trở xuống, có một con đường bộ thẳng đến chân thành. Đây là thành cũ do Thoại Ngọc hầu đắp, đặt một đồn mới ở gần thành, ngoài đồn cắt một đoạn đường đào làm cái hào sâu, trên hào bắc một cái cầu để đi lại, lúc có giặc thì cắt cầu đi. Lại nữa, cái thành đất Châu Đốc, đã sửa làm hình vuông, chỗ còn lại dài hơn 200 trượng, cao xấp xỉ với thành, xin cắt đoạn giữa, để lại 2 góc trước và sau, chỗ gần bờ sông, nhân nếp cũ sửa đắp thêm, khi có giặc thì đặt súng để phòng bị”.
Các đồn mới đắp đó người xưa đã lấy tên những thôn xã ở gần đấy mà gọi, một đồn gọi là Vĩnh Tế, một đồn gọi là Vĩnh Nguyên, dân địa phương gọi trại là Vĩnh Nguơn, nay là tên xã Vĩnh Nguơn thuộc thị xã Châu Đốc. Chưa biết chính xác thời điểm thành lập các thôn này, song có lẻ nó ra đời sau khi có kinh Vĩnh Tế. Xa hơn về phía đường về Hà Tiên còn có các xã mang chữ Vĩnh như Vĩnh Gia, Vĩnh Điều là những thôn cũ cùng thời. Những đồn bảo biên phòng ở vùng biên ải này đã khuất chìm đâu đó trong tiềm thức dân gian qua vài câu chuyện kể hay địa danh, thực tế đã không còn dấu tích.
Đường bộ bây giờ chiếm ưu thế hơn đường thuỷ nên bon xe trên mặt đường trải rộng còn kinh cơ hồ như hẹp lại, vắng vẻ ghe thuyền, khiêm nhường lặng lẽ, làm sao có thể hình dung nổi công lao của tiền nhân ngày xưa đã đổ bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và …máu để đào con kinh mang tính chiến lược này.
Từ lúc khởi công kinh Vĩnh Tế có nhiều lần phải tạm ngưng thi công.
Lần tạm ngưng lần thứ nhất vào năm Canh Thìn (1820). Lần này vua Minh Mạng mới lên ngôi, thấy việc đào kinh đã tròn năm, người người khó nhọc, nên ra dụ tạm hoãn và cấp tiền, vải cho người chết, cấp thuốc men cho người ốm. Bấy giờ con kinh đã hoàn thành được 3.224 trượng, còn lại 9.992 trượng. Đến tháng giêng năm sau, (1821) vua Minh Mạng lại hoãn việc đào kinh. Bấy giờ vùng Hà Tiên-Châu Đốc vừa xảy ra nạn dịch lớn, vua muốn “để cho dân nghỉ ngơi”. Kinh Vĩnh Tế lúc này tuy chưa đào xong, nhưng đường nước nhỏ cũng đã thông.
Tháng 10 năm Nhâm ngọ (1822) vua Minh Mạng ban d nhắc nhỡ công việc đào kinh cần phải khẩn trương hơn. Bấy giờ Phó Tổng trấn Trần Văn Năng xin để lại quân dân hai trấn Phiên An, Biên Hoà để đào đá xây dựng kinh thành. Vua Minh Mạng không đồng ý và ra chỉ dụ: “Còn như sông này (tức kinh Vĩnh Tế), liền với tân cương, rất quan hệ đến việc biên phòng, so với việc xây thành đằng nào cần hơn?” Với tầm nhìn chiến lược của nhà vua, đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824), thì kinh Vĩnh Tế hoàn thành. Vua bảo với quần thần rằng, đào con sông ấy thực là lợi ích muôn năm vô cùng về sau, bèn sai Hữu ty lo việc dựng bia ghi dấu đồng thời ra lịnh ban thưởng cho Thoại Ngọc hầu cùng các quan có công.  Vua còn lịnh tổ chức lễ tế các binh lính và sưu dân đã bỏ mình trong việc đào kinh và soạn “Tế nghĩa trủng văn” đọc trong buổi lễ. Bài văn này còn gọi là “Thừa đế lịnh, tế cô hồn Vĩnh Tế tân kinh”. Ai thừa lịnh phụng soạn thì chưa biết, song chắc hẵn là một người trong cuộc mới hiểu hết nổi gian truân của việc xẻ núi đào kinh.
Sách vỡ xưa ghi vậy nhưng sự việc vẫn còn nhiều khuất lấp. Hồi thế kỷ trước, nhà văn Nguyễn Văn Hầu cho biết vào năm 1960 ông tìm được bài Tế nghĩa trủng văn do miêu duệ của cụ Huấn đạo Khuê cung cấp, nhưng tác giả vẫn hồ nghi không biết có đúng nguyên văn, vì chưa tìm được bài văn tế xưa nào khác để kiểm chứng. Bài văn tế hiện tại tìm thấy được có 38 dòng, mở đầu bằng lời văn mô tả đầy âm khí “Thiên nhai lạc lạc, khách trủng luy luy/Vân phong cổ mộ, nguyệt điếu tàn bi” (Trời xanh thẳm mồ hoang lợp lợp/Trăng soi nhòa mấy lớp bia tàn). Nội dung bài văn tế  xác nhận việc đào kinh đã làm nhiều người bỏ mạng.   
Cũng theo thư tịch, trong buổi tế lễ, thừa lệnh vua, Thoại Ngọc hầu đã làm một cuộc cải táng tập thể, có lẻ rất qui mô, nhưng chưa biết địa điểm hành lễ. Tác giả Nguyễn Văn Hầu căn cứ vào câu cuối bài văn tế “Thừa văn báo hề, tham bang ly/Sam sơn chi tây hề, khã dĩ toại khu trì  (Phương tây gió ngựa ruổi dong/ Núi Sam sừng sựng như trông theo hồn) và đoán rằng địa điểm hành lễ có lẻ là bên triền phía tây núi Sam, chỗ có cắm bia “Đặc tứ Vĩnh Sơn bia ký” và cũng là nơi có nhiều nấm mộ. Có một cuộc cải táng tập thể hay không cũng là điều hồ nghi. Năm ngoái, trong dịp sang Bến Tre, một người bạn vong niên ở huyện Mỏ Cày có dẫn đi xem một ngôi mộ cổ, tuy bia mộ không còn đọc được, nhưng người địa phương vẫn xác tín người nằm dưới mộ là một người dân phu tham gia đào kinh Vĩnh Tế qua đời và được đem xác về quê chôn cất. Cho nên cái cảnh “mồ hoang lợp lợp” biết đâu chỉ là những số phận không may, thân xác không về được cố hương.
3. Trở lại vị công thần họ Nguyễn. Mấy năm trước sang cù lao Dài, huyện Vũng Liêm cùng với Trương Ngọc Tường mới biết được đôi chút về sanh quán của Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại. Ông sinh năm 1761 là con ông Nguyễn Văn Lượng và bà Nguyễn Thị Tiết. Ông Nguyễn Văn Lượng người thôn An Hải, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, làm tới chức Tư thừa, nghe đâu mồ mả còn tại đất Quảng. Còn bà Nguyễn Thị Tiết là con của ông Nguyễn Khắc Tuân và bà Phạm Thị Thấy thì định cư ở cù lao Dài đã lâu. Mồ mả còn đó, nhưng cứ giả thuyết, Nguyễn Văn Thoại có thể được sinh ra tại Quảng Nam, cha mất lúc ông còn nhỏ, rồi theo mẹ vào Nam lập nghiệp. Cũng có thể Nguyễn Văn Lượng vào Nam cưới vợ lập nghiệp và sinh ông ra tại cù lao Dài, nhưng sau đó về Quảng Nam và mất ở đó.  Bà Châu thị Vĩnh Tế là cháu gái ông Châu Vĩnh Huy và bà Đỗ Thị Toán, vào cuối thế kỷ XVIII đã đến lập nghiệp tại thôn Thái Bình (nay thuộc xã Thanh Bình, ). Ông Châu Vĩnh Huy là người có công xây dựng đình chùa, được tôn Hậu hiền thờ ở đình. Họ Nguyễn của Thoại Ngọc hầu đến làng này muộn hơn. Cơ duyên ông theo phò chúa Nguyễn chưa thật sự rõ ràng, nhưng công nghiệp thì đáng bậc công thần. Năm 1817, ông về làm Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh, thấy việc giao thông thương mại ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn, nên ông đã tâu với triều đình cho tiến hành đào kinh Đông Xuyên, nối rạch Đông Xuyên ở Tam Khê (Ba Rạch) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Công trình này hoàn thành chỉ trong một tháng. Kinh đào xong, ông được vua Gia Long khen ngợi và cho phép lấy ông lấy tên mình để đặt tên cho con kinh mới đào là Thoại Hà.
Dấu ấn của ông khởi đầu từ Thoại Hà đến Vĩnh Tế, đến năm 1827, ông còn huy động hàng ngàn dân binh đắp con đường từ Châu Đốc đến núi Sam; Rồi dựng một tấm bia lớn khắc bài văn tự mình thảo ra, nói rõ việc xây đắp con đường này. Nhưng chốn quan trường, đôi lúc công và tội chỉ là làn ranh hết sức mỏng manh. Ông qua đời không lâu thì một số tội trạng được triều Minh Mạng đem ra mổ xẻ. Năm Minh Mạng thứ 11 (1830) thành thần Gia Định dâng sớ xin cấp mộ phu cho ông. Vua Minh Mạng bảo rằng, ông không biết giữ mình trong sạch, phụ lòng trông cậy của triều đình nên không cho đặc ấn ấy. Đọc lại sách sử nhà Nguyễn, người đời sau thấy rằng, Minh Mạng là một vị vua có tư tưởng canh tân nhưng rất nghiêm khắc. Tội trạng của Thoại Ngọc hầu nói theo ngôn ngữ thời thượng là “thiếu trách nhiệm” đối với vùng chiến lược trọng yếu ở biên thuỳ. “Nguyễn Văn Thoại không nghĩ  đến việc biên phòng, chỉ chăm mưu việc riêng mình, nhân dân ở hay đi, ruộng đất khai khẩn hay bỏ hoang đều không quan tâm đến, đến nỗi lâu đến chín năm mà nhân dân còn thưa thớt, ruộng đất còn bỏ hoang, làm việc không công như thế là quá lắm”. Hai năm sau, năm 1832, tức năm Minh Mệnh thứ 13,  vua lại truy luận tội Bảo hộ Thoại ngoại hầu. Lần này có thêm việc đắp đường từ Châu Đốc đến núi Sam mà theo điều tra của vua là để đưa đám chôn cất vợ, nhưng xét công lao, vua chỉ truy giáng xuống hàm Chánh ngũ phẩm và đoạt lại chức tập ấm của con trai, cho tịch thu tang vật mà ông đã sách nhiễu dân.
Gần đây, một số cuộc hội thảo có liên quan đến Thoại Ngọc hầu không bàn sâu vấn đề này, hình như các sử quan hiện tại không muốn vì cái chuyện nhỏ “lấy công làm tư” không đáng kia làm lu mờ công nghiệp của một vị quan khai sơn phá thạch vùng biên. Song sử quan nhà Nguyễn lại ghi rất rõ ràng, trong đó người ta thấy tuy có Minh Mạng khắc khe, song “công thưởng tội trừng” rõ nét, không nhập nhằng. Và quan trọng hơn là việc xử tội Thoại Ngọc hầu có dính dáng đến vấn đề ngoại giao với nước láng giềng thời đó. Âu đó cũng là một thủ đoạn chính trị vậy.
Chuyện xưa ghi lại bên bờ kinh Vĩnh Tế tuy cũ rồi nhưng vẫn còn tính thời sự.

Nguyễn Ngọc Phan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét