ĐÁNH
ĐỀ
TRẦN VĂN
Trong giới bình dân,
có một hạng người gọi là thầy đề, chuyên bàn ngang tán dọc, nói thần nói tướng,
cái gì cũng bàn cũng nói được, thầy đề có "bà con" với thầy bói, bói ra ma quét
nhà ra rác mà. Đánh đề cũng vậy, cái gì người chơi cũng bàn cũng giải thích
được, có đủ lý lẽ theo ý của họ.
Bây giờ môn chơi
đánh đề rất thạnh hành nhưng nó lại biến tướng như đánh vào các con số cuối của
cuộc xổ số mà không phải như chơi đánh đề hồi thời cực thịnh, nguyên thủy của
nó. Cuộc chơi đánh đề có lẽ có từ xa xưa, lâu lắm
rồi.
Thời huy hoàng nhứt của đánh đề là thời mà có
các sòng đánh bạc công khai như Kim Chung, Đại Thế Giới ở Sài Gòn, sau năm
1946-1947. Ở các tỉnh
miền Tây, nơi nào có các đơn vị dân quân giáo phái mạnh thường có tổ chức chơi
bạc mà đánh đề là chính yếu. Đó là một hình thức làm kinh tài
để nuôi dân quân. Các sòng bài, trong đó có đánh số đề đều do người Tàu
làm chủ. Về ăn chơi, cờ bạc người Tàu thuộc loại "dách lầu", người Việt mình bị
ảnh hưởng lây ?
Thời chiến tranh, các môn chơi cờ bạc lớn
cũng đều dựa vào các đơn vị có vũ trang bảo vệ. Người chơi được an
toàn thua và đi đến tự tử nữa.
Có hai loại đề: đề
bốn mươi con và đề mười hai con. Tại các khu cờ bạc có tổ chức
chơi đề bốn mươi con. Nghĩa là bốn mươi con số, từ số
một đến bốn mươi và mỗi con số lại tượng trưng bằng một con vật chẳng khác nào
mười hai con giáp để tính tuổi, tính năm âm lịch. Thí dụ: Số 35 tượng
trưng là con dê. Người đàn ông, con trai nào có máu dê gọi là
máu 35. Con số 35 thực sự đi vào đời sống, sinh hoạt của người dân. Nói ra ai cũng biết, không cần giải thích dài dòng gì cả.
Còn con số 21, tượng trưng cho một con người giang hồ, mại
dâm, một con điếm làm tiền. Số 14 tượng trưng cho con mèo nhà. Số 18
tượng trưng cho con mèo rừng... Lâu quá, hơn nửa thế kỷ rồi,
người viết quên và có thể nhớ sai. Con số chỉ về con cá lại có cá đen, cá
trắng, thật lắm chuyện.
Buổi chiều, sau khi ăn thua xong, người chủ
sòng cho một con số vào một cái hộp, niêm phong thật cẩn thận, buộc chặt vào cây
tre, thượng lên tại trung tâm chơi bạc. Sau đó trung tâm này lại "ra thai" bằng những hình vẽ và nhiều khi có cả chữ Tàu, chữ Việt
ngoằn ngoèo, hình vẽ mờ mờ ảo ảo in trên nửa tờ giấy trắng nhỏ, loại giấy rẻ
tiền. Lúc bấy giờ, các sòng bài họ không in những cái "thai" này tại các nhà in
mà họ tự in lấy bằng khuôn gỗ, hoặc bằng rau câu hay đất sét, nghĩa là cái thai rất mờ ảo, không rõ ràng để những tay chơi bàn ngang tán
dọc mà lựa số đánh ăn thua. Hàng ngàn, hàng chục ngàn cái thai được phân phát công khai tại trung tâm xổ đề, các huyện
đề đến lấy đem về phát lại, hang cùng ngõ hẻm nào cũng có.
Họ niêm phong số đề
vào buổi chiều và phát thai, nhằm mục đích để
đêm tối bà con có máu cờ bạc mặc
sức mà "nằm chiêm bao" cầu khẩn cúng
bái thần linh, những người khuất
mặt khuất mày, ông bà tổ tiên để giúp họ đánh đề cho trúng. Nếu trúng lớn họ sẽ
cúng tạ ơn hoặc xây am, xây miễu... Máu tham của người
chơi bạc, lo lót cả người chết, hủ hóa các vị thần linh
nữa...
Huyện đề bắt đầu làm
việc vào sáng hôm sau. Một huyện đề thường trị vì ở một xóm,
một khu. Rừng nào cọp nấy, huyện đề hoạt động sai địa bàn thì sẽ bị đánh
u đầu sưng trán. Huyện đề là người trung gian đi bán những số đề cho dân ghiền,
ăn tiền "cò", người luôn luôn thắng là huyện đề, nếu họ chỉ đi bán, ăn huê hồng
mà không chơi đề.
Một vùng thường có một "đầu nậu" chuyên kinh
doanh, làm chủ hàng bao nhiêu huyện đề dưới trướng. Tất cả những tờ "phơi", danh sách các số đề
đã được đánh và tổng số tiền của mỗi con số, mỗi danh sách nạp lại cho chủ đầu
nậu trước giờ xổ đề chừng hai, ba tiếng đồng hồ.
Thí dụ đề xổ ra tại
trung tâm cờ bạc lúc bốn giờ chiều, các nơi xa, huyện đề đã "khóa sổ" từ lúc
mười hai giờ hoặc một hai giờ để có đủ thời giờ đem tờ phơi nộp cho đầu nậu và
lấy tiền cò, dù xổ con gì cũng mặc, họ đã hưởng hoa hồng
trước.
Cách nay trên dưới năm mươi năm, biết bao gia
đình ở nhà quê hay ở thành thị bị tán gia bại sản và nhiều vụ tự tử xảy ra cũng
tại môn đề bốn mươi con mắc dịch này. Cái thai họ in
phát ra và con vật, con số xổ ngày hôm đó thường có trời mới bàn đúng được.
Nếu có ai thắc mắc,
tại sao cái thai, hình ảnh như thế đúng ra phải là con số này con vật kia mới
hợp lý, mấy ông thầy đề hay chủ sòng nói: Nị không piết (biết), hình này, con số
đó như thế nó mới đúng với con số xổ kỳ này. Cái gì họ nói, giải thích tào lao cũng được, chỉ có người chơi đề bàn thai, chiêm bao, cúng
lo lót thần linh mà đường nào cũng tới nghĩa địa.
Đề
Mười
Hai Con
Đánh đề bốn mươi con như là một trò chơi
"bình dân" còn đánh đề mười hai con "trí thức" hơn.
Đánh đề mười hai con
thường chơi ban đêm, ban ngày chơi hốt me. Đề mười hai con gồm có : tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, ngựa màu xanh (trắng) và màu
vàng (đỏ). Ai biết chơi cờ tướng, đánh tứ sắc, đánh "xệp" biết
rõ các con bài này. Chỉ có con chốt trong bộ bài tứ sắc không có trong vụ
đánh đề mười hai con. Tứ sắc có nghĩa là bốn màu :
xanh, trắng, đỏ, vàng. Tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã
(ngựa), chốt màu xanh và màu trắng chữ giống nhau, màu vàng và màu đỏ chữ giống
nhau
Đề mười hai con gồm
có sáu con từ tướng đến ngựa màu trắng hoặc xanh và sáu con kia màu đỏ hoặc vàng.
Người làm cái, xếp
mười hai con bài theo một hàng ngang, màu trắng trước
rồi kế là màu đỏ, hoặc màu xanh, màu vàng hoặc đổi lại màu đỏ, màu vàng trước kế
đến là màu xanh, màu trắng. Không có qui luật nhất định, miễn
sao phải đủ mười hai con bài với hai màu khác nhau của hai nhóm xanh, trắng và
vàng, đỏ. Người làm cái xổ đề thiện nghệ, họ dán mười
hai con bài hai màu khác nhau trên một miếng gỗ mỏng hoặc một miếng giấy cứng
được cắt bằng với lá bài để sắp bài dễ dàng, trông đẹp mắt hơn. Lại nữa, khi người làm cái nhịp, gõ trên mỗi lá bài nó không bị xê
dịch như các lá bài không được dán thêm lớp gỗ hay giấy cứng.
Sòng đánh đề rất yên
lặng có vẻ "trí thức", mọi người suy tư, cặp mắt lim dim ra điều đang đào sâu
suy nghĩ. Trên một chiếc chiếu hoặc một chiếc đệm, người làm cái còn trải thêm
một cái khăn hoặc một cái mền nhỏ xếp tư gọn lại để mười hai lá bài lên rất
thẳng, hàng ngang, sát nhau. Dụng cụ của người làm cái gồm có
một cái khăn hoặc một miếng vải sạch, đẹp, một hộp con nếu không có hộp gỗ thì
dùng cái hộp quẹt diêm thường để đựng lá bài mà người làm cái sắp xổ.
Ngồi xếp bằng, một đống tiền làm cái được phơi bày ra công khai để dân chơi liệu
mà đánh ăn thua, chỉ ăn thua bằng ấy tiền mà thôi, tay em không được đánh quá số
tiền đó.
Người làm cái cũng có đủ mười hai lá bài y
như mười hai lá bài xếp hàng ngang trước mặt. Hai tay được che
kín dưới một tấm vải hoặc một miếng lụa, người làm cái lựa một lá bài cho vào
hộp đóng kín lại, rút tay ra; đem cái hộp ra phía trước, miếng vải đậy kín mười
một lá bài còn lại. Giờ căng thẳng bắt đầu, những tay
em kẻ ngồi người đứng, mọi cặp mắt đều đổ xô nhìn vào tay làm cái, quan sát theo
dõi từng động tác, hơi thở, nét mặt. Trên mặt người làm cái có bất cứ dấu vết,
tàn nhang, nếp nhăn lang beng nhỏ xíu, tay em cũng đều
biết. Tay em nhìn tay
cái gọi là "bắt nhãn". Theo tâm lý có tịch thường nhúc
nhích. Xổ con bài nào khi tay chạm vào con bài
đó thường có động tác, cử chỉ khác lạ, tay em đoán mà đánh. Người làm cái dùng
hai ngón tay trỏ và giữa khép lại gõ, nhịp từ con bài
một đủ mười hai con, mặt nhìn thẳng ra phía trước hoặc nhìn theo nhịp tay. Cái
gõ, nhịp đó đi từ trái sang phải, đủ ba lần, rồi thôi. Các tay em tính toán, lựa chọn đánh con bài nào tùy theo cái bắt
nhãn của họ.
Chơi đề mười hai con
là một cuộc chơi cân não, sử dụng môn tâm lý học tối đa nên các sòng đề này rất
im ắng, không ồn ào như các sòng bạc khác. Cái gõ nhịp điệu
nghệ của người làm cái. Trước hết họ gõ trên hộp đựng lá bài mà người cái
muốn xổ để tính ăn thua, rồi tiếp tục gõ nhịp từng con bài đủ mười hai con, lấy
tay về, lại gõ nhịp trên hộp, cứ thế làm đúng ba bận.
Người làm cái phải
nhớ rõ con bài để trong hộp, nhớ sai, khi xổ ra thì phải kể tính ăn thua đến hai con bài. Thí dụ trong hộp
là con bài tướng vàng, nhưng khi người làm cái chỉ trên mười hai lá bài là con
sĩ vàng chẳng hạn. Tay em
đánh tướng vàng, sĩ vàng đều trúng cả dù trong hộp chỉ có một tướng vàng.
Người làm cái, trước khi khui hộp có đựng con bài trong đó, phải để cái hộp và
ngón tay của họ chỉ đúng con bài sẽ xổ ra.
Khi một con bài đã
xổ ăn thua rồi thì con bài đó được lấy ra cho vào phía
cuối của dãy bài mười hai con. Đánh đề người ta cũng dùng lá bài tứ sắc để đặt
ăn thua. Thí dụ muốn đánh con sĩ vàng, tay em phải dùng
con sĩ đỏ hoặc con sĩ vàng để lên đống tiền hoặc để con sĩ vàng phía trên, tiền
để phía dưới - con sĩ vàng phải úp xuống, đó là cách đánh "cầu âu" như đánh me,
một đồng trúng mười đồng.
Cách đánh khác, một lá bài để đứng, phía trên
ở giữa có một lá bài để nằm ngang và ở dưới lại có ba lá bài để
đứng. Tùy theo cách để bài của tay chơi, người làm cái biết rõ tay em
muốn ăn thua theo kiểu nào, cầu âu, một trúng mười. Còn đánh một lá ở trên, một
lá giữa nằm ngang, dưới có ba lá để đứng, tổng cộng là có năm lá bài, ba lá ở
dưới không tính ăn thua mà chỉ tính huề, khi tay cái xổ ra lại đúng vào một
trong ba con đứng ở dưới. Nếu trúng con bài để nằm ngang, một ăn một, nếu trúng vào con bài để đứng ở trên thì một trúng
năm, vì tổng số bài tính ăn thua là năm con về phần của tay em, tay cái còn lại
bảy con, luôn luôn tay cái hơn hai con, gọi gác trước hai cửa. Vì vậy dù đánh
cầu âu cũng chỉ có một ăn mười mà thôi. Con đề xổ ra
không đúng vào một trong năm con của tay em thì tay cái
ăn.
Đánh đề mười hai con
gọi là "trí thức" nhứt trong các môn cờ bạc là như vậy, tính toán ăn thua rất nhiêu khê. Lâu quá tôi có thể nhớ sai cách ăn thua như giải thích trên. Tính ăn
thua của đánh đề rất chậm, không sát phạt nhanh như đánh bài cào, phé, xì lác.
Mỗi lần tính ăn thua mất nhiều thời giờ, nào là gõ nhịp trên cái hộp và trên
mười hai con bài ba lần gọi là "sửa bài" để
cho cho thiên
hạ "bắt nhãn" rồi chờ tay em suy
nghĩ đặt tiền và "gác bài" để tính ăn thua. Khi xổ đề xong, tay cái phải lật từng con bài và từng "tụ" tính ăn thua.
Qua nhiều giai đoạn, chậm chạp rất yên lặng.
Bây giờ là thời đại
văn minh cơ khí, đánh bạc cũng vậy, người ta muốn ăn thua nhanh nhưng gặp môn
đánh đề mười hai con chậm chạp và tính toán phức tạp nên nó không được phổ quát.
Âu cũng là cái may
vậy !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét