NƯỚC THỐT LỐT
VÀ THỊT DƠI
TRẦN VĂN
- Tâu na bòn?
- On xà-lanh bon tê ?
Một cô bé Khờ-Me trạc độ chín, mười tuổi theo mẹ đi bán nước thốt lốt, có
người gọi là nước thốt nốt. Ở tỉnh An
Giang (tỉnh Long Xuyên cũ) có một quận tên là quận Thốt Nốt, cách thị xã Long
Xuyên hơn mười cây số, ở phía bến bắc Vàm Cống và sân bay của tỉnh, trên đường
đi Long Xuyên - Cần Thơ. Với nước da đen
tuyền, cặp mắt to, lông mi cong vút, dạn dĩ hỏi bọn trẻ Việt Nam đang đứng xớ rớ
nhìn hai mẹ con, tâu na bòn, có nghĩa là anh đi đâu
đó.
Bốn đứa trẻ trai, cũng có đứa trạc tuổi với cô bé người Miên, láu lỉnh
chọc ghẹo liền bằng câu nói mà những người con trai Việt Nam ở các vùng biên
giới Miên - Việt thường tiếp xúc với người Miên, để trêu ghẹo cho vui miệng,
không có hàm ý tán tỉnh o mèo. Đó là câu
học tiếng Miên đầu tiên: on xà lanh bon tê?
Có nghĩa là: em yêu (thương) anh không?
Cô bé bẽn lẽn, mắc cở núp sau lưng mẹ.
Bà mẹ và cả đám trẻ cười rộ càng làm cho cô bé mắc cỡ dữ, hai tay nắm
chặt vạt áo mẹ.
Cả
bốn đứa trẻ ở ấp Bà Bài trong một nhóm thân nhứt, đi đánh lộn, đá banh, bơi lội,
săn bắt chim, chuột, bắt cá, ăn, chơi đều có nhau, gần nhau thân nhau còn hơn
anh em ruột.
Nhóm bốn đứa của Ngọc học được nhiều câu nói thông dụng tiếng Miên để có
dịp tiếp xúc với đám trẻ nhỏ Miên xổ ra và cả những lời chửi tục tỉu. Thông thường học tiếng nước ngoài dễ nhớ và
nhớ dai là những câu nói bậy bạ, những lời văng tục, chửi thề, đám bạn của Ngọc
rành sáu câu. Mỗi khi xáp độ đánh lộn
hay giành giựt cái gì đó, bọn trẻ Việt Nam xổ nho chùm như súng liên thanh nổ,
còn bọn trẻ Miên rặn nói một câu tiếng Việt tía tai đỏ mặt nhưng không đâu vào
đâu nhiều khi phản nghĩa nữa. Người Việt
mình có tài học và nói tiếng nước ngoài rất hay, rất
chuẩn.
Nước thốt lốt thường đựng trong những ống tre dài trên dưới bốn tấc, lớn
có, nhỏ có để dễ bán giá khác nhau. Mỗi
ống tre lớn cũng đựng được vài lít nước.
Trên miệng ống, có xỏ dây để máng lên đầu đòn
gánh.
Sáng sớm từ sóc, phum (xã, ấp) của người Miên, những người bán nước thốt
lốt gồng gánh nặng trĩu vai, mỗi đầu gánh có đến mười, mười lăm lít nước thốt
lốt nóng hổi còn bốc khói, họ hối hả đi sang làng mạc Việt Nam
bán.
Hương vị nước thốt lốt ngọt lịm, đậm đà và thoang thoảng mùi khói. Trước khi đem đi bán, nước thốt lốt được xông
khói đun nóng lên, giữ được độ ấm càng lâu càng tốt dễ bán hơn; nước thốt lốt có
mùi đặc biệt khó quên. Trong nước thốt
lốt hình như có chất ga gần giống như trong nước xá xị. Những ngụm nước thốt lốt làm kích thích vị
giác, lưỡi bị tăng tăng.
Từ thuở lên ba lên bốn tuổi, trong trí nhớ
mông lung, Ngọc rất mê uống nước thốt lốt vào sáng sớm. Ở nhà quê, vùng biên giới Việt - Miên, nước
thốt lốt rao
bán từ tờ mờ sáng, sau đó mới đến các gánh hay xuồng
bơi theo dòng kinh Vĩnh Tế bán nào bún nước lèo, nước kèn, xôi bắp, xôi nếp,
bánh trôi nước mà quê của Ngọc gọi là bánh xôi nước. Những tiếng rao lanh lảnh của các bà, các cô
thôn nữ vang vang trong sáng sớm như mời gọi bao tử hoạt động mạnh sau một đêm
dài ngơi nghỉ.
Bụng đói uống nước thốt lốt âm ấm thì đã thiệt, chất ga của nước thốt lốt
làm cho dạ dày và lưỡi thòm thèm một cái gì đó cho khoái khẩu và sướng dạ. Ba của Ngọc, ông Hương Tuần, một người có uy
thế nhứt trong ấp, thân hình cao lớn, mập mạp, trắng trẻo, một người có bộ tướng
ngầu về nhiều phương diện, ông lại giỏi võ.
Ông Hương Tuần, theo thói quen, bốn giờ sáng thức dậy. Thói quen nầy "di truyền" qua người con trai
út là Ngọc, dù có việc hay không cũng đều thức vào giờ nầy trong suốt cuộc
đời. Ông thức sớm, làm một vố thuốc rê,
loại thuốc rê vàng tươm mật của xã Long Khánh, một cù lao gần quận Tân Châu, nổi
tiếng về nghề sản xuất thuốc rê, nuôi tầm trồng dâu và dệt tơ lụa : Mỹ A, Cẩm Tự
láng cóong. Ông Hương Tuần vừa làm một
vố thuốc rê trong một cái ống bíp của một thằng Tây bụng phệ chủ đồn điền tặng
khi nó đi chơi đến ấp Bà Bài. Ông vừa
nhóm lửa bằng cây điên điển rất dể cháy nấu một siêu nước sôi pha trà, loại trà
quạu, hiệu Bông Sen, nổi tiếng thơm ngon.
Uống vài chung nước trà đậm đặc, ông Hương Tuần ra sân nhìn trời, nếu có
trăng sao và lờ mờ sáng có thể nhìn thấy quang cảnh được, ông cầm một cây ba
toong, thót lên lưng ngựa, hoặc đi bộ, có vài chú khuyển chạy theo "hộ tống" để
đi thăm ruộng và tiện thể gở bắt chim mắc dính câu giăng trên trời. Khi trở về nhà lai có một món cháo chim tuyệt
cú mèo đổi món lót lòng buổi sáng. Ông
Hương Tuần còn ăn trầu nữa, tóc búi tó, đầu đội nón cối, không phải thứ nón cối
Việt Cộng đội sau nầy, loại nón vành to mà Tây thích đội. Khi nào trời mưa ông Hương Tuần mới đội nón
lá. Chừng hơn một giờ thăm ruộng trở về
nhà, ông phun một cái phẹt xuống đất nhả bả trầu ra. Ông lại làm tiếp một vố thuốc rê thì cũng là
lúc có người bán nước thốt lốt gánh đi tới.
Ông gọi mua vài ống, có khi đến gần chục lít vì nhà con cái đông và
thường xuyên người làm công ăn ở trong nhà cũng đến năm bảy người. Sẵn bếp lửa, ông đổ vào nửa siêu nước thốt
lốt, đun sôi, để hơi lâu một chút cho nước thốt lốt sắc lại. Ông Hương Tuần đập ba cái hột gà cho vào tô,
đổ nước thốt lốt vào, dùng muỗng đánh tan hột gà, súc miệng sạch, ních một hơi
gần nửa tô, còn lại, ông gọi lớn tiếng xuống nhà bếp vì bà Hương đang lo làm
lông mấy con chim trời ông vừa mới đem về:
- Má sắp nhỏ, bà ơi ra đây tôi biểu.
Bà Hương vội đến ngay coi ông sai biểu cái gì ?
- Má thằng Ngọc uống đi cho bổ.
Ông Hương Tuần thương thằng con trai út nhứt, xem như là quí tử, nên ông
gọi bà Hương là má thằng Ngọc, ông không gọi má thằng nầy, con kia vì Ngọc theo
thứ tự, thứ mười. Bà Hương kể rằng, sau
khi người con cả của ông bà chết lúc hai mươi tuổi khi vừa mới hỏi vợ. Ông buồn không còn gọi má thằng Đại nữa, từ
đó ông gọi bà Hương là má sắp nhỏ. Mãi sau nầy có lẽ ông Hương ăn nên làm ra,
phất lên nên ông thương yêu Ngọc nhứt cho là nhờ sanh ra Ngọc và gọi bà Hương là
má thằng Ngọc. Không biết nước thốt lốt
với hột gà bổ đến đâu, má của Ngọc dù không cao không thấp, thường uống nước
thốt lốt hột gà với ông Hương nên rất mắn đẻ, cứ sản xuất đều chi mười một trự,
cứ cách hai năm một cậu hoặc một cô chào đời.
Ngọc là người thứ ba được uống nước thốt lốt, có lẽ nhờ uống nước thốt
lốt có hột gà nên Ngọc cao lớn nhứt trong mười một anh chị em ? Các ống nước thốt lốt mắc trên vách ai uống
bao nhiêu thì tùy thích nhưng chậm thì cũng ngẩn tò
te.
Sau màn uống nước thốt lốt,
đến màn ăn cháo chim trời, rồi ai
có công việc nấy. Ông Hương Tuần dù biết
chữ nho ít và chữ quốc ngữ thì vừa đọc vừa đánh vần, nhưng ông có óc tổ chức rất
khoa học và ông nói tiếng Miên cũng như người Miên. Sóc, như làng, ấp của Việt Nam, người Miên
trồng rất nhiều cây thốt lốt, một loại như cây cọ, gần giống như cây dừa cây
cau, hình như trồng trên mười năm mới có trái.
Thuở xa xưa, tỉnh Châu Đốc có năm quận: Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh
Biên và Hồng Ngự. Đến thời đệ nhứt cộng
hòa, thời ông Diệm quận Hồng Ngự được sát nhập vào tỉnh Kiến Phong, tỉnh lỵ là
Cao Lãnh. Trong thời kỳ nầy, tỉnh Châu
Đốc được sát nhập với tỉnh Long Xuyên thành tỉnh An Giang. Đến đệ nhị cộng hòa, Châu Đốc được trở lại
như trước nhưng không có quận Hồng Ngự, mà có một quận mới là quận An Phú, một
quận nằm dọc theo biên giới Việt - Miên, đây là vùng sông nước có cá nhiều nhất
của tỉnh Châu Đốc. Nhiều xã của quận Tân
Châu và Châu Phú tách ra để hình thành quận An Phú
nầy.
Nơi nào có người Miên sinh sống là nơi đó có trồng nhiều cây thốt
lốt. Ở quận Tịnh Biên và Tri Tôn có
nhiều xã có đến chín mươi phần trăm là người Miên, có sinh hoạt, phong tục, tập
quán và lối kiến trúc chùa chiền riêng.
Quốc giáo của Miên là Phật Giáo nhưng theo phái Tiểu Thừa, còn Việt Nam
đại đa số tín đồ Phật Giáo theo Đại Thừa.
Người ta chỉ nhìn nơi nào có trồng nhiều cây thốt lốt, có thể khẳng định
đó là khu cư dân người Miên. Còn người
Việt mình thích trồng dừa thay vì trồng thốt lốt, không hiểu về mặt kinh tế,
trồng loại cây nào lợi hơn.
Cây thốt lốt rất cao lớn mới có bông trái. Người ta lấy nước thốt lốt từ trên củ hủ,
khoét một lỗ trong đó, đặt ống dẫn vào ống tre được buộc chặt vào thân và cành
lá. Những cây thốt lốt cao trên bảy, tám
mét, người ta thường khắc vào thân cây những nấc để leo lên cho dễ.
Những người chuyên đi làm công việc lấy nước thốt lốt hoặc hái trái, họ
có tài leo lên xuống thoăn thoắt, người nào mới trông thấy lần đầu không khỏi
chóng mặt và hồi hộp. Nước thốt lốt chỉ
lấy được vào mùa nắng gắt vì mùa mưa nước lạt bách, uống không ngon. Còn trái thốt nốt, tròn, nhỏ như trái dừa
nước của các vùng nước lợ (cây dừa nước mọc theo bờ sông rạch), ăn cũng rất
ngon.
Ai
có đi viếng núi Sam, Châu Đốc trong dịp Vía Bà Chúa Xứ từ hai mươi ba đến hai
mươi bảy tháng tư âm lịch cũng như trong suốt mùa nắng sau Tết Nguyên Đán, thử
ăn trái thốt lốt. Cắn, nhai nghe sần sật
rất sướng cái miệng, trơn dễ nuốt lại béo, ngọt. Trái thốt lốt già người ta còn nạo lấy cơm
vắt lấy nước, trộn với bột gạo làm bánh bò có thêm đường thốt lốt, có mùi thơm
đặc biệt ăn rất ngon miệng.
Năm 1990, Ngọc có dịp trở lại vùng Tịnh Biên, sau biến cố 30 tháng 4 năm
1975 và cuộc chiến tranh Miên - Việt sau đó, nhiều người Miên bán nhà đất để
bồng bế nhau trở về xứ Miên. Nhiều người Việt, trong đó có cháu của Ngọc cũng
đang làm đường thốt lốt. Từ bối cảnh lịch sử đó, hiện nay ở vùng Tịnh Biên, Tri
Tôn có nhiều người Việt khai thác cây thốt lốt, trước kia chỉ có người Miên
trồng cây thốt lốt mà thôi. Tàn cây thốt
lốt, lá bẹ to, loại lá cọ, không phải như lá dừa dài. Đi cấy ruộng, thời kỳ chưa
có tấm ny-lông để làm áo mưa, người dân quê cũng tạm dùng nguyên một tấm lá thốt
lốt nhỏ che mưa ở giữa đồng nội. Thân cây còn đục đẽo làm
xuồng.
Công dụng cũa cây thốt lốt, từ thân, lá, trái đều có giá trị. Nước thốt lốt còn nấu để đặc thành đường, một
loại đường đặc biệt ăn thơm ngon mà người dân miền Tây rất thích. Ai có ăn qua đường thốt lốt, nhất là ăn với
dưa gang, không có loại đường nào sánh kịp. Mắm Châu Đốc sở dĩ ngon cũng nhờ
chao đường bằng đường thốt lốt.
Nghề bán nước thốt lốt cũng gia truyền từ thế hệ nầy sang thế hệ
khác. Nước thốt lốt đựng trong những ống
tre dài ngắn lớn nhỏ được xỏ thành xâu máng trên hai đầu gánh cũng có đến cả
chục ống. Người đi bán nước thốt lốt
gánh nặng trĩu oằn vai, khi bán phải để gánh trên vai bán từng ống cho khách
hàng. Không thế nào dựng ống nước thốt
lốt xuống đất hay máng gánh vào đâu được.
Chỉ có thể đổi vai trái hoặc phải đỡ đau khi cảm thấy khó chịu. Ẩn người bạn đầu đàn của nhóm tinh nghịch hay
chọc phá và chọc chòm xóm chữi hoặc bị mắng vốn "méc má". Có lần Ẩn bao cả bọn uống nước thốt lốt thả
cửa mà Ẩn trả tiền quá ít, người bán cự
nư û:
- À, à dơ, ít tiền không đủ.
- Ông không lấy hả; Ẩn nói.
- Không đủ tiền mầy ơi, tao không lấy.
- Ông không lấy hả. Được. Ẩn lại la lớn:
- Tụi bây ơi !
Chạy.
Thế là cả bốn đứa co giò chạy thục mạng.
Người Miên bán nước thốt lốt tức ói máu, không thế nào quăng hoặc để gánh
xuống đất được mà chạy rượt theo bọn chúng, nước thốt lốt sẽ văng đổ tung
tóe. Nặng quá lại cồng kềnh làm sao mà
rượt bắt kịp bọn trẻ tinh nghịch. Chỉ
còn nước dặm cẳng kêu trời và chữi:
- Đui me (Đ. M. của Việt Nam) và những câu chữi tục tỉu
khác.
Ngọc còn nhớ rõ, nhiều bạn trẽ thường sữa những câu nói của người Miên
thành tiếng lái như đui me đổi thành đui
then, có nghĩa là đen thui mà đồng thời cũng hàm ý có chữi thề trong đó vì có
tiếng đui, còn có ý nghĩa khác ám chỉ người Miên có nước da đen mun.
Lớn lên tản cư ra tỉnh lỵ Châu Đốc, đi học trường tỉnh Ngọc cũng hay chọc
ghẹo bọn học trò trường Tàu, gặp dân Tàu gốc Triều Châu mà người mình thường gọi
là người Tiều, Ngọc thường xổ một tràng tiếng Tàu, thứ tiếng Tàu nầy gọi là
tiếng tào lao :
- Xa xí nán bò chằng ếch, có nghĩa là ba bốn người không có tắm, ám chỉ
bọn nầy ở dơ, gặp con gái gốc Triều Châu mà nói như thế thì chỉ có nước nghe
chữi. Tụi nó xổ ra cả tràng liên thanh,
tụi mầy chữi tụi mầy nghe, tao điếc con rái, không thèm nghe. Bọn Ngọc có nghe được gì đâu. Còn gặp dân Tàu mà gốc Quảng Đông, chỉ nói
được tiếng Quảng, bọn trẻ cũng thường trêu ghẹo bằng ngôn ngữ lái của Việt Nam
nhưng có âm rất giống tiếng Tàu hoặc nửa tiếng Tàu nửa tiếng
lái.
- Xám cô dành sực dách cô sườn tại, có nghĩa là ba người (xám cô dành),
xực là ăn, dách cô là một (cái trái...), sườn tại là tiếng lái xài tượng, một
loại xoài trái to nhứt trong các loại xoài, ít chua, dòn ăn với nước mắm đường
có nhiều ớt hoặc quết với mắm ruốc của bà Giáo Thảo ở Vũng Tàu, dân bợm nhậu và
các bà các cô ăn quên thôi. Ai trông
thấy các gánh bán xoài tượng có tô mắm ruốc to với ớt chín đỏ mà lại không chảy
nước bọt ?
Còn nữa, bọn trẻ Việt Nam thường chọc phá trẻ con Tàu mà ở miền Tây Nam
Bộ, người Tàu đa số là gốc Triều Châu.
Triều Châu chỉ là một huyện của tỉnh Quãng Đông mà cũng có ngôn ngữ
riêng. Hai ngôn ngữ Tiều và Quãng khác
nhau như tiếng Việt với tiếng Tây, Tàu vậy.
Mạnh ai nấy hiểu.
- Quảng Đông ăn cá bỏ đầu,
Triều Châu thấy vậy xỏ xâu đem
về.
Dân Triều Châu nghe câu nầy thì cũng tức hộc xì dầu, chửi tục
nữa.
Người ta cũng thường chọc ghẹo dân "Bò Líu",
tỉnh Bạc Liêu và chọc cả dân Việt nữa:
- Bạc Liêu là xứ quê mùa
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều
Châu.
Ở
các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá gần như một trăm phần trăm người
Tàu là người Tiều, cho nên khi đi xe đò hay ở những nơi công cộng, người ta nghe
thấy vô vàn câu nói pha trộn tiếng Việt, tiếng Tiều mà người Việt chính cống
cũng đều hiểu: Ý, Củ, Nứng, Chệt, Xẩm, Hia... mà người bình dân thường có những
câu chọc ghẹo trào phúng:
- Ngầu lôi tăng kể, âm phát ra như là tiếng Tiều chính hiệu nhưng không
phải, đó là tiếng lái, ngầu lôi tăng kể nghĩa là ngồi lâu tê cẳng.
Từ
món ăn, cách nói, tập tục của cư dân miền Tây pha trộn ba dòng máu chính là
Việt, Tàu và Miên. Có những đặc thù
riêng mà các miền khác của đất nước không có.
Đặc biệt là sự pha trộn của nhiều sắc dân Tàu, Miên kể cả người Chàm ở
miệt Châu Đốc, sống chung hòa bình càng làm thêm phong phú truyền thống văn hóa
của người Việt.
Cây thốt lốt còn là nơi thu hút dơi sinh cư, những tàu lá già, vàng cụp
xuống là nơi lý tưởng để dơi làm tổ sinh đẻ.
Ở Sóc Trăng, Trà Vinh những nới có nhiều người Miên ở, đất ở vùng nầy có
lẽ không thích hợp lắm cho cây thốt lốt cho nên người Miên ít trồng.
Ở
những khuôn viên chùa Miên là có trồng năm, mười cây thốt lốt, cũng là nơi trú
ngụ của loài dơi. Hằng ngày người ta
quét gom lại cứt dơi để làm phân, một thứ phân bón tốt nhứt cho cây thuốc lá
(thuốc rê) và dưa hấu. Hơn nữa, những
cây thốt lốt ở gần chùa các vị tăng sĩ không cho người dân quấy phá hay bắt ăn
thịt nên dơi càng ngày càng nhiều.
Các chùa nầy có tên là chùa dơi ở Sóc Trăng, Trà Vinh... nghe hai tiếng
chùa dơi thì người ta hình dung ngay đó là chùa Miên, Phật Giáo Tiểu Thừa, có vô
số dơi cư trú ở trong chòm lá của cây thốt lốt cao
vút.
Thịt dơi cũng là món ăn ngon của dân quê. Người ta phân biệt hai loại dơi chính: dơi
sen và dơi quạ. Nghe chữ quạ biết đó là
dơi đen và to con hơn dơi sen màu lông chuột.
Người ta thích ăn dơi quạ hơn vì to con, thịt nhiều. Có người nói rằng huyết dơi quạ pha với rượu
đế uống trị được bệnh ho lao, đau phổi nặng, nhưng lấy được huyết dơi cũng rất
khó, tốn nhiều công sức, Ngọc chỉ nghe nói nhưng chưa khi nào thực hiện
được. Còn thịt dơi thì trắng ngần, nấu
cháo với đậu xanh ăn mát hết sẩy. Những
người lớn tuổi có kinh nghiệm cho rằng món cháo thịt dơi với đậu xanh ăn vào rất
mát mẻ, bổ dưỡng tăng cường sinh lực và đêm đó có gần bà xã, thế nào cũng làm bà
xã hài lòng vì trả bài thuộc làu làu.
Năm 1955, khi tròn hai mươi tuổi, Ngọc làm hiệu trưởng một trường tiểu
học thuộc xã Vĩnh Tế gần chợ núi Sam.
Phụ huynh phụ giúp, Ngọc mua cây lá cất một cái nhà trên triền núi Sam,
gần nơi đây có một hang dơi thật lớn.
Mỗi buổi chiều, trời vừa tắt nắng, hàng chục ngàn dơi từ trong hang bay
túa ra có khi tới cả giờ mới chấm dứt, làm cả một vùng trời bị một màn đen che
khuất với những tiếng chít chít hòa với tiếng đập của đôi cánh tạo thành một âm
thanh lạ kỳ khó quên. Học trò của Ngọc
mách kế, lấy vài cành cây loại cây có gai mà ở địa phương gọi là cây gai móc ó
vì gai của nó mọc tua tủa như móng vuốt của con ó. Đầu gai hơi cong vào nên được gọi là cây móc
ó.
Buổi trưa là lúc dơi đang ở trong hang, học trò của Ngọc đặt vài cành gai
móc ó ở vào một góc của hang dơi để chiều chúng bay ra đi ăn có hàng chục con
dính vào gai, thầy trò chỉ tuyển lựa con nào lớn độ chục con hay hơn tùy theo có
nhiều hay ít người ăn. Những con nhỏ,
các đệ tử tháo gỡ ra để chúng tiếp tục bay đi ăn. Đem dơi về nhà, thầy trò làm một màn cháo dơi
và có thêm món dơi xé phai trộn với rau răm trồng sẵn sau
hè.
Ngọc lúc đó mới hai mươi tuổi, còn đồng trinh
nên thỉnh thoảng ăn cháo dơi bổ quá mát ruột mát gan, tối ngủ cũng bắn máy bay
cho bằng thích. Trong thời gian dạy học
ở núi Sam, Ngọc cho vài đệ tử ruột cùng ở chung mà các em nầy rất tháo vát, dõi
dang tìm bắt các thứ đặc sãn của địa phương như cá, chim, chuột, rùa, rắn, luơn,
dơi nên Ngọc cũng biết làm và thưởng thức nhiều món ăn ngon tuyệt của quê hương
trong thời gian dạy học tại đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét