ĐÂM CÁ
BÔNG
TRẦN VĂN
Cá bông cùng họ hàng
với cá lóc, hình dáng gần giống nhau, nhưng màu sắc khác biệt rõ ràng nhứt.
Cá bông sống lâu năm, lớn "tổ bà nái" to gấp ba bốn lần hơn cá
lóc. Cá lóc lớn nhứt vài ký lô, loại có râu, mình xám
đen, người ta ví von gọi là cá lóc biết nói. Cá bông,
cá lóc mới đẻ, còn nhỏ xíu gọi là cá lòng ròng. Có
nhiều nơi như ở vùng quê Tây Ninh, cá lóc còn nhỏ gọi là cá trào, lớn mới gọi là
cá lóc. Còn vùng quê Bà Bài, cá lóc, cá bông lớn nhỏ gì
cũng gọi một tên thôi. Cá bông, loại lớn, hiếm thấy, có
con đến gần mười ký lô. Cá bông có sọc dài, to ở hai
bên hông, những sọc dài nhỏ hoặc các đốm màu xanh đậm, đen khắp thân mình, ngoại
trừ bụng thì màu trắng đục. Có nhiều màu sắc, sọc, đốm rằn ri, cá bông ở trong nước trông rất ngầu, dễ sợ vì tính hung
dữ của nó. Cá bông, hình như có một số người gốc miền Bắc gọi là cá lóc bông
(hay bông lóc ?). Cùng họ với cá
bông, cá lóc còn có một giống cá hình thù cũng giống như vậy, có tên là cá
dầy. Cá dầy gần giống với cá bông vì nó cũng có sọc, rằn ri nhưng mình cá không tròn trịa như cá bông lại môi trề,
miệng móm, đầu dài, dẹp hơn đầu cá bông. Có tên gọi là cá dầy
nhưng mình không dầy bằng cá lóc, cá bông, thịt lại nhão nữa. Người dân
quê chê cá dầy, ăn không ngon nên giá bán rẻ hơn rất
nhiều so với họ hàng của nó. Cá dầy cũng được làm mắm, làm khô
để lẫn lộn với cá bông cá lóc và khó phân biệt
được.
Nhiều cách bắt cá độc đáo của xứ Bà Bài mà
các nơi khác không có, người ta bắt cá bằng cách giăng lưới, giăng câu, đặt lọp,
vó gạc, vó càng, đặt chà... Một cách bắt cá thông dụng của
nhiều gia đình mà lại có nhiều loại cá, trong đó có cá bông. Đó là chào rào, còn gọi là "bò".
Người ta đan chào rào bằng loại tre già,
miệng thật to, trong lòng chào rào để nhiều nhánh cây gọi là chà, lục bình, đặt
sâu dưới nước, trước nhà, chỗ quang đãng dốc thoai thỏai dễ kéo lên bờ khi bắt
cá. Người ta còn cho vào trong chào rào nào đầu, ruột cá, lòng
gà, cua ốc, chuột chết... làm mồi để cá tôm vào ăn, trú ẩn.
Có nhiều cá linh, cá con vào ăn thì cá bông, cá lóc cũng vào để rượt bắt săn mồi. Đúng với câu phong dao tục ngữ "cá lớn nuốt cá bé". Những chỗ
có nhiều cá, chào rào được kéo lên mỗi ngày vào sáng sớm, vì qua đêm, có nhiều
loại cá tôm vào hoạt động và ăn mồi. Nếu để sáng quá,
khi trời nắng lên cá lại đi ra sông. Cá trê, tôm bắt được mùi
hôi thúi cũng vào chào rào. Mỗi lần kéo chào rào lên, người ta bắt được
hàng rổ cá từ vài ký trở lên, nào là cá lóc, cá bông, cá trê, cá rô, cá linh, cá
lòng tong, cá thiểu, cá mại, cá he, cá chốt, cá lăng và
tôm càng nữa.
Tùy theo chào rào
lớn nhỏ và chỗ có nhiều hay ít cá, người ta rất thoải mái bắt cá khi mùa nước
cạn bằng cách này. Khi ít cá, người ta để vài ngày mới kéo
chào rào lên một lần.
Một cách bắt cá độc
đáo nhứt là nằm tum đâm cá bông với mũi chĩa ba hoặc mũi chĩa sa-di năm
mũi
Mùa
nước giựt, còn gọi là mùa nước xuống, từ giữa
tháng mười âm lịch. Mùa nước lên còn gọi là mùa nước nổi từ
tháng năm đến giữa tháng chín. Một tháng, từ giữa tháng
chín đến giữa tháng mười là mùa nước đứng. Nước chảy
chậm, không còn chảy siết nữa. Một thời gian ngắn, từ
một đến hai tuần nước trong đồng ruộng hình như nước đứng hẳn, không còn luân
lưu. Đó là thời gian nước trong nhứt, cũng là cơ hội
đâm cá bông tốt nhứt.
Lúc nước lên chảy
siết, bùn đất từ thượng nguồn đổ xuống nước đục ngầu đất phù sa. Thời điểm này, cá mẹ cá cha dung dăng dung dẻ, tình tự ân
ái sanh con nối giòng và chúng dẫn đàn con tung tăng bốn phương tám hướng khi
nước tràn bờ kinh rạch đục ngầu mênh mông. Mùa này, hình như
tất cả mọi loài thủy tộc đều sinh đẻ.
Sau bốn, năm tháng, cá bông lớn nhanh nhất cá
bông rất dữ, săn mồi tài tình hơn các loài cá khác. Có con nặng vài ký lô, những lứa cá đẻ muộn
vào cuối tháng năm, tháng sáu, đến tháng chín tháng mười cũng được trên một ký.
Cá bông thường
đi từng bầy, cá cha cá mẹ thật lớn, nhiều khi còn sống sót từ vài năm trước.
Cá bông cha mẹ là Tư lệnh và Tư lệnh phó chiến trường, tả xông
hữu đột tấn công các loài thủy tộc khác bảo vệ đàn con khi chúng còn nhỏ, nhứt
là lúc còn là cá lòng ròng. Cá bông cha mẹ vừa bảo vệ an ninh vừa chăm
sóc, dạy các con cách săn mồi và thường đùa giỡn với đàn con..Cá con có tình nghĩa mẹ con, huống chi là con
người.
Đầu tháng chín âm lịch, nước chảy yếu dần,
mực nước không lên nhiều, mưa bắt đầu thưa, cỏ, lúa thi nhau lên cao khỏi mặt
nước vài tấc. Nước sâu từ
ba, bốn mét hoặc hơn nữa, tùy theo thế đất gò hay nong
và lúa cũng theo kịp nước, nên người ta gọi là lúa nổi (le riz flottant). Nước chảy yếu, nước ít đục, báo hiệu mùa nước giựt sắp đến.
Thời điểm này là thời điểm lý tưởng nhứt để làm tum đâm cá
bông. Thời gian đâm cá bông thường hai
tuần lễ, đôi khi cũng kéo dài nhưng không quá một
tháng. Khi nước giựt nhiều, mực nước không nhanh và nước
"thúi" nặng thì không còn đâm được cá bông. Nước thúi, sau khi nước
"đứng" không lên không xuống, không luân lưu, lúc đầu nước rất trong và sau đó
cỏ úa, mục làm cho nước đục ngầu có mùi một chút và mặt nước thường nổi váng, cá
tôm không còn nhanh nhẹn, vì môi trường bị ô nhiễm. Chính lúc
này người ta bắt cá dễ nhứt và nhiều nhứt bằng đủ mọi cách, ngoài trừ ngồi tum
đâm cá bông.
Tại sao người ta gọi là cái
tum. đó có phải là tiếng Khờ-Me được phiên âm chăng ? Dân quê có
câu thành ngữ "ngồi tum" là một cách ngồi chờ đợi hay là chờ thời. Trong giới cờ
bạc, nhứt là người đánh xì-phé, dân chơi phé đợi khi nào có phé hoặc tẩy có xì,
có già mới vô, theo. Đại khái, dân đánh phé tính toán
chơi chắc ăn thì mới theo hoặc tố lại, nhưng có lúc
cũng bị phản phé, thua sạch túi. Người ngồi tum đôi khi cũng
bị phản phé nghĩa là đâm không được con cá bông nào, hoặc đâm được ít cá bông và
quá nhỏ, uổng công dang nắng, mất thời giờ mà chẳng có lợi là bao.
Cái tum được làm mỗi
cạnh trên dưới hai mét bằng tre hoặc bằng cây tràm. Bốn góc
tum, cây trụ cột được đóng sâu vững chắc, cây tràm hoặc tre già đầu vạt nhọn,
dùng "chày vồ" đóng xuống đất. Ngang mặt nước, tràm nhỏ hoặc thanh tre
ràng buộc chặt bốn cạnh và thả cây ngang dọc cũng khá dày, trên phủ cỏ mục hoặc
cỏ tróc gốc kín, không chừa một khe hở nhỏ nào cả. Ở giữa tum, người ta chừa một
ô vuông, gọi là lỗ tum, mỗi cạnh khoảng trên dưới một gang tay.
Trên cao, người ta
căng một tấm đệm cũ hay chiếc chiếu rách hoặc một tấm vải, hay một thứ gì đó để
che nắng, chú ý che kỹ lỗ tum. Khi ngồi hoặc nằm tum, người ta còn trùm lên đầu
bằng một cái mền hay miếng vải lớn bao trùm lỗ tum để nhìn thấy cho rõ đến tận
mặt đất. Bất kể loài thủy tộc gì từ tôm cua
bò sát mặt đất hoặc cá nhỏ lớn đi
vào tum đều được nhìn thấy rõ ràng.
Cả
đồng trống mông quạnh chọn khu nào có cỏ lúa thưa thớt, tum thường làm ở những
khu nầy và còn nằm cạnh đường mòn nhỏ khi trâu bò và người ta đi thành lối vào
lúc mùa khô. Dưới cơn
nắng gắt chói chang, nắng càng nhiều càng tốt, từ mười một giờ trưa đến hai giờ
chiều, thời gian lý tưởng nhứt để ngồi tum đâm cá bông.
Đặc tính và thói quen của các loài thủy tộc
là sống hợp quần; chúng ở từng khu vực, sinh sống ở từng mực nước sâu cạn khác
nhau. Rõ rệt nhứt là cá
bông, từ lúc còn là cá lòng ròng, lúc còn nhỏ cho đến lúc lớn chồng ngồng, chúng
cũng đi từng đàn từng bầy dưới sự dẫn dắt chỉ huy của vị Tư lệnh chiến trường cá
cha, cá mẹ hoặc các con cá huynh trưởng, to, khỏe nhứt. Những con cá chỉ huy nầy
thường đi đầu hoặc đi cuối.
Giữa trưa, trời nắng
chang chang, bầy cá bông đang di chuyển, đùa giỡn, rượt đuổi nhau, thỉnh thoảng
mở cuộc tấn công vào các loài cá nhỏ bé, nhứt là cá linh vừa nhiều vừa là món
mồi ngon dễ khuất phục. Đang ngao du, rượt đuổi mồi, trời lại nắng gắt mà gặp
bóng mát nữa, bầy cá bông tắp vô trú nghỉ gọi là "đụt" trong chốc lát, rồi lại
tiếp tục đi. Lúc này bầy cá bông vui đùa hào hứng, thoải mái tung tăng, rượt đuổi nhau trong bóng mát, mẹ cha lẩn quẩn bên
cạnh.
Dưới mặt tum, từ mặt
nước đến dưới sâu, đâu đâu cũng có cá bông, nước dậy sóng, bóng mát tum không đủ
chỗ, chúng lội chạy rượt đuổi ở bên ngoài chung quanh tum, vô ra tum liên tu
liền liền. Chúng có biết đâu, kẻ sát thủ đang rình rập chờ đợi con cá nào lớn
nhứt lọt vào tầm nhìn ở lỗ tum là ra tay liền. Một mũi
chĩa ba, bố trí theo hình tam giác đều hoặc mũi chĩa
sa-di, ba mũi hay năm mũi thẳng hàng ngang, cách khoảng đều nhau. Mũi chĩa, đầu
thật nhọn lại có ngạnh, cán chĩa là một cây tầm vông vừa nắm tay, già, chắc,
được chọn lựa cẩn thận, dài khoảng bốn, năm mét.
Người đâm cá bông cũng như người lính ra
trận, đợi chờ cá bông như kẻ địch vào tầm tác xạ. Nhìn qua lỗ chiếu môn là lỗ tum đến mục tiêu
chọn lựa, thường là cấp chỉ huy, cá lớn nhứt, nhởn nhơ, ít lăng xăng, ít đùa giỡn. Lý tưởng hơn nữa là lúc chúng sựng
lại, không di chuyển hoặc đang uốn éo, cạ mình vào cây trụ tum, đưa bụng trắng
toát như mơn trớn, lả lơi. Đó là lúc sát thủ ra tay chớp nhoáng, phóng mũi chĩa xuống đâm trúng vào chỗ
nghiệt như cổ cúc cá hay bụng cá mà người ta đã ngắm chọn trước. Cây chĩa được ấn mạnh thêm đến chạm mặt đất để cá dính vào chĩa ngập
sâu vào mấy cái ngạnh, rồi người ta mới rút chĩa lên gỡ ra cho cá vào khoang
xuồng. Động tác thật nhanh, tiếp tục trùm mền trên đầu
và rình đâm thêm những con cá khác. Một bầy cá bông vào tum và lẩn quẩn ở
đây chừng năm mười phút, người ta có thể đâm được vài con cá lớn, chúng thấy
động tĩnh nhiều hoặc có con cá nào bị sẩy làm náo động mạnh, chúng sợ bỏ đi nơi
khác và bầy cá khác lại vào tum.
Theo kinh nghiệm,
khi đâm trúng được cá bông chỗ nghiệt hay không, người ta cũng phải ấn cây chĩa
xuống chạm mặt đất để các ngạnh của mũi chĩa ăn sâu vào
mình cá vì cá dẫy dụa dữ dội dễ bị sứt, thoát. Hơn nữa, ấn
mạnh chạm đất, động tác dẫy dụa của cá cũng đỡ khuấy động nước làm các con cá
khác hoảng sợ. Khi kéo cá lên, người ta cố xoay trở
cách nào để đầu cá lên miệng tum trước. Vừa tới mặt nước, gặp những con
cá bông to lớn, dùng một khúc cây nhỏ đập vào đầu cá, rồi mới dùng tay bợ dưới bụng cá kéo lên, theo chiều đầu lên trước vì cá
dài hơn miệng tum. Người ta không dám bợ tay trước khi
chưa đập đầu cá vì cá bông rất dữ, rất khỏe, lơ đễnh nó táp vào tay đứt cả ngón
tay như chơi và cũng dễ bị sẩy lúc nầy vì là lúc chúng vùng vẫy dữ dội nhứt.
Dù bị đập vào đầu như thế, nhưng nhiều con cá bông chỉ ngất
không chết hẳn, cho cá vào trong khoang xuồng, có nắp đậy lại. Công việc nầy thật chóng vánh, người ta còn phải tiếp tục rình đâm
cá bông nữa cho đến khi không còn cá bông nào vào tum mới
thôi.
Nhát đâm đầu tiên,
người ta chọn lựa những con cá to, thường là cá cha hay cá mẹ. Cũng như con
người, cá to mập thì có phần chậm chạp hơn và là thế hệ trước nên ít chạy rượt
lung tung hơn thế hệ tiếp nối. Tiếp tục ngắm tìm con cá
nào vào đúng tầm của mũi chĩa, người ta cũng lựa chọn, nhưng chọn lựa con cá nào
dễ đâm nhứt. Một bầy cá chừng vài chục con, may ra đâm đến con thứ tư, thường
chỉ đâm được một, hai con, thấy bị động, chúng chạy tán loạn đi nơi
khác.
Vài chục thước hoặc xa hơn nữa mới có một cái
tum. Thời gian đâm cá bông rất hạn chế, lúc mặt trời gần đứng bóng hay
quá đứng bóng một chút. Lý do, mặt trời vào lúc
đứng bóng ngay đỉnh đầu, bóng râm của cái tum trùm thẳng xuống, khi mặt trời
xiên, chênh chếch, bóng râm bị lệch ra ngoài tum. Bóng mát
lệch càng xa thì sẽ không thấy cá xuất hiện trong tầm nhìn lỗ tum. Đến
đây, người ta đành thu dọn đồ đoàng xuống xuồng bơi về,
đợi đến ngày hôm sau cũng vào giờ trưa có nắng gắt lại tiếp tục nằm tum đâm cá
bông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét