SƯỚNG ANH HÀNG DẦU…
Sướng anh hàng dầu,
Đau anh thợ hoạn,
Khốn nạn anh nồi rang
Tan hoang anh... Tạ Đái.
Đây
là một chuyện vui cổ ở miền Bắc Việt Nam. Vì là chuyển. cổ, xưa trong
dân gian không có ghi trên sách vở giấy tờ nên có thể ngày nay ít ngưòi
biết đến, dù là những người sinh quán ở miền Bắc Việt Nam, nhất là giới
trẻ tuổi.
Đã
là chuyện cổ Việt Nam thì không gian là khung cảnh miền quê Việt Nam
ngoài Bắc và thời gian xẩy ra là cổ xưa và xẩy ra vào khoảng “Tây chưa
đánh thành Hanoi”, cái thời mà y phục phụ nữ cổ truyền còn là yếm thắm
và chưa mặc quần, còn mặc váy mà trong dân gian sau này thường đố vui là
“Cái thúng mà thủng hai đầu
Bên Tây thì có, bên Tàu thi không”,
Dĩ
nhiên là thời đó không hề nghĩ tới đồ lót để chế tạo ra những món như
Victoria Secret, Gorgeous hiện nay. Cái thời mà còn dùng tiền đồng, tiền
kẽm, có lỗ vuông ở giữa để xỏ sợi lạt qua mà xâu để vắt lên vai hoặc bỏ
vào thúng gánh để đi chợ; hồi đó chưa có ai phát minh ra tiền giấy chứ
đừng nói là chi phiếu hoặc tiền plastic Discover, Visa, American
Express… tiện dụng như ngày nay.
Cái thời mà còn dùng đèn đốt bằng dầu lạc hoặc dầu thầu dầu khói mù nhà và khét lẹt. Cái
thời mà mọi thứ còn bán rong, nghĩa là có người mang các món đi bán và
rao lớn tiếng để ai cần thì ra mua khi nghe tiếng rao hàng.
Cái
thời mà đường đi toàn là đất lối lõm lỗ chân trâu, lỗ chân voi, chiến
tượng mà quản tượng đưa đi dạo cho khỏi cuồng cẳng. Chợ búa là để bán
qua, mua lại những món cần thiết hàng ngày, ví dụ người bán rau để lấy
tiền mua thịt, cá, v..v…Có lẽ đây là tiền thân của Swap meet ỏ Mỹ ngày
nay !! Không có gì để bán thì khỏi cần đi chợ, cho nên tại một làng nọ
có anh bán dầu thường gánh dầu tới dù là hang cùng ngõ hẻm để bán.
Lâu
ngày nên khách mua đã quen và anh bán dầu cũng biết rõ từng gia chủ mà
khách “xộp” nhất là ông bà lý trưởng trong làng. Bên mua, bên bán lâu
ngày thành quen, đồng chịu (nợ) đồng giả (trả) anh hàng dầu xuề xòa dễ
tính để giữ mối hàng và bà vợ ông lý trưởng (nhà quê thường gọi là bà
Lý, tiếm vị chức cuả chồng như vài bà có chồng có địa vị cao ngày nay)
cũng đỡ lo mỗi khi thiếu hụt vì chồng cần nhiều dầu hơn thường lệ cho
những buổi họp hội đồng kỳ mục ban đêm ở đình làng.
Tích
tiểu thành đại, (không phải như hò Huế có câu : Cũng bởi vì anh nay một
thị, em mai một thị nên chi chừ… lỡ dĩ ra rồi !) mua chịu nhiều rồi
thành món nợ lớn, bà Lý phần vì không có tiền, phần vì sợ chồng gắt gỏng
chê là không đảm đang nên cứ khất lần (hẹn lần sau) và anh hàng dầu vẫn
hể hả “Không sao mà !” cho tới một hôm anh hàng dầu biết chắc chắn là bà Lý mới bán mẻ lợn đưọc khá nhiều tiền thừa trả mấy lần tiền nợ mua dầu.
Hôm
đó anh ta không gánh dầu đi bán mà thắng bộ cánh khá bảnh đến nhà bà Lý
để đòi nợ. Anh ta đến sớm vì biết ông Lý bận họp ở đình với các cụ tiên
chỉ, thứ chỉ và những vị chức sắc khác trong làng về vụ chậm trễ thuế
má nộp lên tổng để nộp quan trên. Anh hàng dầu xồng xộc vào trong nhà,
ngồi xếp chân vòng tròn trên giường và lên tiếng đòi nợ,
Bà
Lý thấy món tiền phải trả qúa lớn, cả vài chục quan (!) nên cũng hơi
tiếc thành ra lại “xuống nước” khất đến lần sau. Thấy vậy lần này anh
hàng dầu, không nói gì, bước xuống giường, lững thững đến nơi bàn thờ và
thấy có cút ruợu trắng/rượu đế để đó, bèn cầm lên làm một tợp (hớp,
ngụm, hơi, miệng). Bà Lý vội vàng cản vì đó là cút rượu dành cho chồng
vào bữa cơm tối, nhưng đã không kịp vì đã bị uống mất khá nhiều.
Là con nợ nên bà đành bấm bụng thở dài để yên cho chủ nợ uống vậy. Nghe tiếng thở dài, nhớ đến câu “Gái thở dài, trai nằm xấp” tên bán dầu bèn mượn hơi men gạ gẫm rằng “Thôi ! tiền bà mua dầu thiếu, tôi xí xóa nếu như bà cho…tôi ngủ với bà bây giờ”
Bà
Lý bèn ngúyt một cái chiếu lệ (cho phải phép) nhưng bản tính tiếc tiền
nên nghĩ bụng là có mất mát gì đâu mà xí xóa được món nợ cả vài chục
quan, có thể mua được mẻ lợn con mới. Thế là chậc lưỡi một cái, bà vội
nói “Thôi được, mau mau kẻo ông ấy về !”, và thế là bà vội ngả lưng
trên giường và kéo ngược váy lên. Bây giờ mới thấy sự tiện dụng của cái
váy và tiện dụng nữa là không có đồ lót Victoria (!). Thế rồi việc gì
phải đến đã đến. Bà Lý thì hồi hộp chỉ lo ông Lý về giữa buổi mà ”thằng
phải gió” thì có cút rượu trắng rồi nó… mãi không thôi !.
Cuối
cùng thì rồi nó cũng phải xuống và quen miệng như ở nhà nó hô “Quạt !
Quạt !”. Bà Lý rủa thầm “Quạt cái mả mẹ mày !”. Lát sau anh hàng dầu mới
ngồi dậy, vớ lấy ấm nước chẳng cần rót ra chén mà tu một hơi và cứ ngồi
đấy. Bà Lý sốt ruột vì sợ chồng về nên “năm lần bẩy lượt” dục (hối) nó
đi về mà nó chỉ ừ hữ. Thế rồi ông Lý về thật, về vào lúc bà dang lo “sốt
vó” vì cái ”thằng phải gió” “thằng Trời đánh ! Thánh vật! ”còn ngồi đó.
Hắn
đứng lên chắp hai tay vái ông Lý rất kính cẩn và chào “Bẩm ông đã về !”
Ông Lý mát ruột và hỏi “Anh đến có việc gỉ ?” thì anh hàng dầu bèn lễ
phép nói “Bẩm con đến xin tiền dầu bà Lý mua vào kỳ họp hai tháng
trước”. Ông Lý nghĩ một chút thì nhớ ra và hỏi là bao nhiêu tất cả và
nhẩm tính (tính rợ) là đúng, ông liền bảo vợ “Sao không trả người ta mà
để lâu quá thế !”
Bà
Lý cay đắng vội nói “Trả, trả cái gì ? ông biết gì mà bảo trả !”. Trước
mặt người lạ mà không có vai vế gì với làng, với hàng tổng lại thêm vừa
bị các cụ quở (la, rầy, mắng) nơi đình chung về tội chậm thuế, và với
uy quyền của người chồng mà lễ giáo ngày xưa là “xuất giá tòng phu” ông Lý bèn quát “Thế tiền bán lợn hôm qua đâu ? Mày có đem ra trả người ta hay không thì bảo !”
Bà
Lý lầu bầu vừa tức, vừa bực vì đã bị “thằng phải gió” làm tan nát “đám
cỏ gà” lại còn bị chồng quát tháo nên chần chừ thì đã bị chồng xáng cho
một cái tát nổ đom đóm mắt (nẩy lửa/nháng lửa) nên bù lu, bù loa, nhưng
cũng phải bấm bụng đứng dậy vào lấy tiền ra trả cho “thằng phải gió”
Thật là “mất cả chì lẫn chài” !. Theo đúng ngạn ngữ (!) “Được tiền liền
dời nhà”, anh hàng dầu vắt vai chuỗi tiền đồng hớn hở, hi hửng, chân nam
đá chân xiêu bước ra đường.
Rõ thật là “Sướng anh hàng dầu” đây nhé ! Được cả tình lẫn tiền ! Còn phần hai của ca dao “Đau anh thợ hoạn, Khốn nạn anh nồi rang“ thì sao ?
Ra
khỏi nhà ông Lý, tiền nợ đòi được vắt vai, anh hàng dầu mặt mày đỏ ké
vì rượu hớn hở, tung tăng bưóc trên đường như con trẻ, đi khỏi nhà ông
lý một đỗi (quãng) thì gặp anh Thập Mười,
không phải, gặp tổ sư Thập Mười tức anh họan lợn. Anh hoạn lợn thấy anh
hàng dầu mặt đỏ, vui mừng hớn hở vội hỏi “Này ! đằng ấy có chuyện gì mà
vui thế ? Nói cho tớ biết được không ?” Thấy vậy anh hàng dầu bèn nói
rằng “À ! Có gì đâu, bố ông lý mới chết, tớ thắp nén hương (nhang), chia
buồn mấy câu nên được đãi bữa chén !”. Tổ sư Thập Mười mừng qúa bèn vội
vàng “ba chân bốn cẳng" rảo bước đến nhà ông bà lý trưởng. Đến nơi thì
quả thấy bà lý ngồi sệp dưới đất còn sụt sùi, nước mắt, nước mũi còn
nhếch nhác anh hoạn lợn tin là “nhà có đám“ thật bèn hắng dặng và an ủi
rằng “Thôi ông bà chẳng nên buồn, nghĩa tử là nghiã tận, tôi đến để thắp
nến hương (nhang) cầu xin (cầu nguyện) cho linh hồn cụ ông sớm tiêu
diêu miền cực lạc !”
Bố
mình còn sống rõ ràng mà cái thằng hoạn lợn khốn kiếp này đến thắp
hương khấn vái chia buồn, chắc nó (bộ nó) muốn rủa cho bố mình chết
chăng ?
Thế
là tiện có cái gậy thòng lọng để bắt lợn mà hoạn lợn ta ghếch ở mạn
giường nên ông Lý quơ lấy và vụt túi bụi vào lưng, vào người anh hoạn
lợn và hô hoán “Bố tao còn sống sờ sờ ra đó mà mày rủa cho bố tao chết
hở ! hở ! hở !” Mỗi tiếng “hở” là môt cái quất vào người anh hoạn lợn. Ở
tình thế này thì đương nhiên là tổ sư Thập Mười phải vọt ra khỏi nhà,
ông Lý ném theo cái đồ nghề còn nắm trong tay. Anh hoạn lợn đau đớn cúi
xuống nhặt (lượm) lấy cái “cần câu cơm” và hớt hải bỏ đi.
Khéo
sao ! vừa được một quãng ngắn thì gặp anh hàng bán nồi rang, có nơi gọi
là “chã”, gánh một gánh nồi cồng kềnh đi tới. Nồi rang là cái gi ? Xin
thưa đó là vật dụng bằng đất sét nung mầu đỏ như gạch chủ đích lá dùng
trong bếp để rang khô cho chín các thực vật nhất là ngũ cốc như vừng
(mè), bắp (ngô), thính, v..v…
Ngày
xưa nồi rang thường làm bằng đất nặn tựa như cái chảo nhỏ, không tráng
men vì toàn dùng để rang khô, nếu để nấu có chút nước thì gọi là ram ví
dụ như ram tôm, ram thịt mà sau này ta cứ tiện gọi là rang, thì có tráng
một lớp men xấu làm bằng tinh nứa. Cả hai loại không và có tráng men
đều phải nung cho đất sét thật khô cứng. Dĩ nhiên ngày xưa đem nồi rang
đi bán là phải gánh và phải xếp lên bồ, thúng, sao cho khéo để có thể
gánh được nhiều mà nồi rang không nứt, vỡ (rạn, bể).
Anh
nồi rang thấy anh hoạn lợn hớt hải, mặt đầy vẻ sợ hãi đi tới thì vội
hỏi ”Sao ! Sao ! Có gì mà sợ quá vậy ?” Vừa đau đòn, vưà giận vì bị anh
hàng dầu lừa dối nên anh hoạn lợn bèn nói thon lỏn “Voi sổ lồng, ai có gánh, có gồng thì chạy !”.
Xin nhắc lại là ngày xưa voi là chiến tượng của nhà vua và thường được
quản tượng chăn dắt ngoài đường, phố. Nghe thấy mấy tiếng ‘voi sổ lồng’
là anh bán nồi rang “mặt cắt không còn hột máu” gánh nồi trên vai chạy
thục mạng (chí chết) kẻo voi sổ lồng mà tới thì tan nát hết tất cả gia tài là gánh nồi rang. Từ đó dân gian ngoài Bắc có ca dao:
“Sướng anh hàng dầu,
Đau anh thợ hoạn,
Khốn nạn anh nồi rang”
(theo Doãn Thường – Pasadena)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét